TÌNH HÌNH
KHÁNG THUỐC KHÁNG SINH HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM
DS. Lê Mới Em, Bệnh Viện Đa Khoa Huyện Thạnh Trị, Sóc
Trăng
1. Tình hình đề kháng thuốc kháng
sinh hiện nay:
1.1.Tình hình kháng thuốc trên thế
giới.
Trên thế
giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, vấn đề kháng thuốc đã trở nên báo
động. Gánh nặng về chi phí điều trị do các bệnh nhiễm khuẩn gây ra khá lớn do
việc thay thế các kháng sinh cũ bằng các kháng sinh mới, đắt tiền.
Số liệu
nghiên cứu giám sát ANSORP từ tháng 1/2000 đến tháng 6/2001 của 14 trung tâm từ
11 nước Đông Nam Á cho thấy tỷ lệ kháng cao của vi khuẩn S. pneumoniae. Trong số 685 chủng vi khuẩn S.
pneumoniae phân lập được từ người bệnh, có 483 (52,4%) chủng không còn nhạy
cảm với penicillin, 23% ở mức trung gian và 29,4% đã kháng với penicillin (MIC
≥ 2mg/l). Kết quả phân lập vi khuẩn cho
thấy tỷ lệ kháng penicillin ở Việt Nam cao nhất (71,4%) tiếp theo là
Hàn Quốc (54,8%), Hồng Kông (43,2%) và Đài Loan (38,6%). Tỷ lệ kháng
erythromycin cũng rất cao, ở Việt Nam là 92,1%, Đài Loan là 86%, Hàn Quốc là
80,6%, Hồng Kông là 76,8% và Trung Quốc là 73,9%. Số liệu từ nghiên cứu giám
sát đa trung tâm đã chứng minh rõ ràng về tốc độ và tỷ lệ kháng của S.
pneumoniae tại nhiều nước châu Á, những nơi có tỷ lệ mắc bệnh nhiều nhất
thế giới.
Theo số
liệu nghiên cứu KONSAR từ 2005-2007 ở các bệnh viện Hàn Quốc cho thấy S.
aureus kháng Methicillin (MRSA) 64%; K. pneumoniae kháng cephalosporin thế hệ 3 là 29%; E. coli
kháng fluoroquinolone 27%, P. aeruginosa kháng 33%, Acinetobacter spp.
kháng 48%; P. aeruginosa kháng amikacin 19%, Acinetobacter spp.
kháng 37%. E. faecium kháng vancomycin và Acinetobacter spp.
kháng imipenem tăng lên dần. Tỷ lệ kháng phát hiện tại các phòng xét nghiệm của
E. coli và K. pneumoniae đối với cephalosporin thế hệ 3 và P.
aeruginosa đối với imipenem cao hơn trong bệnh viện.
1.2 Tình hình kháng thuốc kháng sinh
ở Việt Nam .
1.2.1 Tỉ lệ kháng kháng sinh của các
chủng vi khuẩn Gram dương.
Tụ cầu vàng Staphylococcus aureus là nguyên nhân gây nhiều loại nhiễm
khuẩn trong bệnh viện như: viêm phổi, nhiễm trùng xương, tim và nhiễm khuẩn
huyết. Hiện nay, tụ cầu vàng kháng methicillin (MRSA) kháng giống nhau đối với
tất cả các penicillin hiện hành và các β – lactam khác. Từ sau thập niên 1990
đã xuất hiện các trường hợp nhiễm MRSA tại cộng đồng (gọi là CA-MRSA:
community-associated MRSA), những trường hợp này hoàn toàn không có yếu tố nguy
cơ nhiễm khuẩn mắc phải tại bệnh viện. Nhiễm trùng do vi khuẩn này đang có
khuynh hướng xảy ra phổ biến hơn ở người trẻ, khỏe mạnh và gây bệnh chủ yếu ở
da và mô mềm. Cũng có thể gặp viêm phổi hoại tử do vi khuẩn này. Nhiễm khuẩn do
MRSA khó điều trị hơn so với tụ cầu vàng nhạy cảm với methicillin, chỉ có một
số kháng sinh còn có hiệu quả tốt trong tình huống này. Tỉ lệ kháng kháng sinh của S.
aureus khác nhau giữa các bệnh viện: có tới 68,8% các chủng phân lập tại
bệnh viện Chợ Rẫy kháng với Gentamicin. Tỉ lệ kháng Oxacillin cao nhất tại Bệnh
viện Đa khoa Trung ương Huế với 63,8%. Theo báo cáo của Bệnh viện Chợ Rẫy năm
2008, có 8% số chủng S. aureus phân lập được đề kháng với vancomycin.
Tuy nhiên, đến năm 2009, phần lớn các bệnh viện kể cả Chợ Rẫy không có chủng S.
aureus nào đề kháng với vancomycin trừ một số bệnh viện tỉnh và bệnh viện
trực thuộc Sở y tế cho kết quả đáng nghi ngờ về tỉ lệ kháng vancomycin của tụ
cầu vàng, ví dụ như 60,9% S. aureus kháng vancomycin tại bệnh viện Uông
Bí, 24,1% tại bệnh viện Bình Định và 15,6% tại bệnh viện Xanh Pôn.
Streptococcus pneumoniae xuất hiện kháng thuốc với nhiều loại
kháng sinh, bao gồm penicillin, cephalosporins (các β – lactam), macrolide,
fluoroquinolone, và thậm trí đã xuất hiện đa kháng thuốc. Cơ chế phế cầu đề
kháng với β – lactam là thay đổi protein kết hợp thuốc (PBP-penicillin binding
protein). Tình hình kháng với macrolide là cao và nghiêm trọng trên phạm vi
toàn cầu. Hai cơ chế chính kháng macrolide, cụ thể là kháng ở mức thấp (MIC
1-32mcg/mL) do thay đổi cơ chế bơm đẩy do gen mef (A) quyết định và kháng ở mức
cao (MIC> 64mcg/mL) do cơ chế methyl hóa ribosome tác động lên vị trí kết
hợp thuốc do gen erm (B) quyết định. Hiện nay, trên phạm vi toàn cầu, tình
trạng phế cầu kháng fluoroquinolone (FQ) còn rất hiếm nhưng đang có khuynh
hướng gia tăng. Fluoroquinolone tác dụng trên vi khuẩn thông qua cơ chế ức chế
tổng hợp DNA. Kháng thuốc xuất hiện bằng cơ chế đột biến các gen gyrA và parC.
Ở các trường hợp ngưỡng kháng thấp, đột biến chủ yếu xảy ra ở vị trí parC và
các trường hợp này còn nhậy cảm với các fluoroquinolone mới. Trong khi kháng ở
mức độ cao có sự tham gia đồng thời đột biến ở cả 2 vị trí gen parC và gyrA. Kháng
thông qua cơ chế bơm đẩy cũng có thể xảy ra nhưng ý nghĩa thực của cơ chế còn
chưa biết rõ.
1.2.1 Tỉ lệ kháng kháng sinh của các
chủng vi khuẩn Gram âm.
Nhiễm trực khuẩn Gram(-) như: Klebsiella pneumoniae,
Escherichia coli và các chủng vi khuẩn khác thuộc nhóm Enterobacteriacea
có vẻ tương đối phổ biến. Trong những năm qua, đã có sự gia tăng kháng thuốc
trong số các vi khuẩn gây bệnh nhóm này, bao gồm cả sự hiện diện của các men
beta-lactamase phổ rộng (ESBL). Những ca kháng thuốc đã được ghi nhận ở nhiễm
khuẩn cộng đồng và nhất là trên những người có sử dụng dịch vụ chăm sóc y tế. Nhiễm
trùng nhóm này thường kết hợp với tăng tử vong, có rất nhiều dạng kháng thuốc
đã được phát hiện trong nhóm trực khuẩn Gram (-) này.
Klebsiella
pneumoniae là trực
khuẩn Gram âm gây viêm
phổi mắc phải tại bệnh viện. Hiện nay, tại Việt Nam đã xuất hiện một trong những vi khuẩn đa kháng
thuốc. Sự
kháng thuốc của nhóm vi khuẩn này cực kì
nguy hiểm bởi vì bản thân loại vi khuẩn này có khả năng sinh được hai loại enzyme: β
lactamase phổ
rộng và carbapenemase.
Các enzyme này làm biến đổi, phá hủy cấu trúc
hóa học của kháng sinh. β
lactamase phổ
rộng có khả
năng phân giải hầu hết các loại kháng sinh thuộc nhóm β lactam đặc biệt đối với các
penicillin và các
cephalosporin thế hệ thứ 3. Quan trọng
hơn nữa là Klebsiella
pneumoniae còn có khả năng sản sinh được carbapenemase phân giải
carbapenem như imipenem, meropenem...,
trong khi carbapenem được xem như là cứu cánh cuối cùng trong việc
lựa chọn kháng sinh để điều
trị. Kết quả: Phân lập được
35 chủng từ 680 mẫu bệnh
phẩm tại Viện Pasteur TP Hồ
Chí Minh từ
tháng 1-6/2014, kết
quả
như sau: K. pneumonia
kháng cao nhất với Ampiciline (94,29%), tiếp đó Trimethoprim/ sulfamethoxazol (79,31%),
Cephalexine, Piperacillin (62,86%), Ceftazidime (51,43%), chỉ
một tỉ lệ nhỏ kháng lại
Colistin, Imipenem, Meropenem 2,86%); 65,71% chủng
sinh ESBL và 20% chủng
sản xuất carbapenemase.
Trực khuẩn mũ xanh Pseudomonas aeruginosa là một trong những
nguyên nhân hàng đầu gây nhiễm khuẩn mắc phải tại bệnh viện. Chúng gây nên những bệnh lí với nhiều mức
độ khác nhau như viêm phổi,
nhiễm khuẩn vết thương, nhiễm khuẩn huyết nặng với tỉ lệ tử vong khá cao. Tỉ
lệ
P. aeruginosa gây nhiễm
khuẩn bệnh viện đã tăng
dần trong những năm gần đây trên thế giới và cả Việt Nam . Cùng với sự gia tăng về tỉ lệ
nhiễm khuẩn là sự gia tăng về khả năng kháng kháng sinh, cụ thể kháng với
carbapenem. Ở Việt Nam, nghiên cứu ở 36 bệnh viện các tỉnh phía Bắc trong năm
2006 – 2007 bao gồm 2 bệnh viện Trung ương, 17 bệnh viện tuyến tỉnh, 17 bệnh viện
tuyến huyện cho thấy 553/7571 (7,8%) bệnh nhân bị nhiễm trùng mắc phải tại bệnh
viện. Có 3 loại nhiễm khuẩn chính: viêm phổi (41,9%), nhiễm khuẩn vết mổ
(27,5%), nhiễm khuẩn tiêu hóa (13,1%). Căn nguyên chính là Acinetobacter baumannii (23,3%) và Pseudomonas aeruginosa (31,5%). Theo kết quả nghiên cứu từ 4 bệnh
viện tại Hà Nội: Việt Đức, Xanh Pôn, Bệnh viện 108 và Bệnh viện 103 từ năm 2005
– 2008 cho thấy P. aeruginosa phân lập
từ các bệnh phẩm đề kháng rất cao với các loại kháng sinh như Tetracycline
(92,1%), Ceftriaxone (58,5%) và Gentamicin (54%).
Acinetobacter là những vi khuẩn Gram âm, đa hình
(hình cầu khuẩn hoặc cầu trực khuẩn), rất dễ nhầm lẫn với các vi khuẩn thuộc
giống Neisseria. Chúng gây những bệnh lí khác nhau với mức độ khác nhau,
từ viêm phổi đến nhiễm khuẩn vết thương và nhiễm khuẩn huyết nặng. Tỉ lệ Acinetobacter spp.
gây nhiễm khuẩn bệnh viện đã tăng lên đều đặn trong những năm gần đây trên thế
giới. Kết hợp với tỉ lệ nhiễm khuẩn tăng, một tỉ lệ tăng lên của chủng không
nhạy cảm kháng sinh, cụ thể carbapenem đặc biệt đáng lo ngại. Hiện
nay, Acinetobacter được xem là vi khuẩn hàng đầu gây viêm phổi bệnh
viện tại những bệnh viện lớn trong nước và kháng với hầu hết kháng sinh kể cả
những kháng sinh phổ rộng mạnh nhất hiện nay. Trong tổng kết của Bộ Y tế năm
2004, phần lớn những kháng sinh sử dụng thường xuyên hiện nay đã bị kháng như
ceftriaxone 70%, ceftazidime 64%, ciprofloxacine 55% và Acinetobacter trở
thành tác nhân hàng đầu kháng toàn bộ kháng sinh cùng với P. aeruginosa gây rất nhiều khó
khăn cho công tác điều trị.
Các
chủng vi khuẩn đa kháng thuốc hiện nay “ESKAPE”
(viết tắt của 6 chữ cái đầu tiên của 6 chủng vi khuẩn trong hình minh họa bên
dưới) là các tác nhân gây nhiễm trùng nặng, kéo dài thời gian nằm viện và tăng
chi phí điều trị.
2. Cơ chế đề kháng kháng sinh của vi
khuẩn:
2.1. Làm thay đổi đích tác động.
Vi khuẩn
thay đổi đích tác động của kháng sinh, do đó kháng sinh không còn vị trí
để tác động. Ví dụ: Acinobacter
baumani kháng lại Imipenem và Pseudomonas aeruginosa kháng
Ticarcillin và Imipenem do chúng thay đổi vị trí gắn vào protein của các kháng
sinh. Cơ chế tác động của các kháng sinh nhóm quinolone là ức chế hoạt động của
đoạn gen mã hóa quá trình tổng hợp enzym GyrA (ADN gyrase subunit A) và ParC
(topoisomerase IV) của tế bào vi khuẩn. Ví dụ tính kháng quinolone của S.
typhi xảy ra do đột biến điểm của các đoạn gen mã hóa quá trình tổng hợp
enzym GyrA và ParC trên nhiễm sắc thể của vi khuẩn.
2.2.
Tạo ra các enzyme.
Enzym
được tạo ra làm biến đổi hoặc phá hủy cấu trúc phân tử của kháng sinh. Ví dụ
với các enzym beta-lactamase có khả năng phá hủy penicillin được báo cáo trước
khi được đưa vào sử dụng vào đầu những năm 1940. Sau đó hàng loạt các enzym
beta-lactamase có khả năng ức chế hoặc phân hủy các kháng sinh mạnh như
cephalosporin và carbapenem được phát hiện. Hiện nay đã xác định được hơn 890
loại enzym kháng kháng sinh của vi khuẩn, nhiều hơn số lượng các loại kháng
sinh đã được sản xuất và phần lớn các gen mã hóa các enzym này nằm trên các
plasmid có thể truyền dễ dàng trong quần thể vi khuẩn cùng và khác loài.
2.3. Làm giảm tính thấm của
màng nguyên sinh chất
Làm giảm
mức độ thấm của kháng sinh qua thành tế bào vi khuẩn trong trường hợp kháng
tetracycline hoặc làm mất hệ thống vận chuyển qua màng trong trường hợp kháng kháng
sinh nhóm aminoglycosid. Việc thâm nhập của các kháng sinh nhóm beta-lactam
được thực hiện qua các kênh vận chuyển (porin), vi khuẩn biến đổi làm mất các
kênh vận chuyển và làm hạn chế sự tác động của nhóm kháng sinh này. Cơ chế bơm
đẩy (efflux pump) của các kháng sinh nhóm quinolon của vi khuẩn E. coli
và P. aeruginosa, thường liên quan đến hệ thống vận chuyển ion qua màng
tế bào.
Tài liệu tham khảo.
1. Bùi Khắc Hậu và nhóm tác giả
(2008), Dịch
tễ học phân tử các chủng Pseudomonas aeruginosa đa kháng thuốc
nhiễm trùng bệnh
viện tại Hà Nội, Báo cáo kết
quả nghiên cứu Đề tài
cấp Bộ,
Đại học Y Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Thị Tuyết Nga, Vũ Văn Giang, Nguyễn Văn Hà, Trần Quý (2008), Tỉ lệ và các yếu tố liên quan đến nhiễm trùng bệnh viện trong một số bệnh viện ở phía bắc của Việt Nam, 2006-2007, Tạp chí Y học lâm sàng 6.
3. Hoàn Doãn Tĩnh, Vũ Lê Ngọc
Lan, Uông Nguyễn Đức Minh, Lí Thành Hữu, Cao Hữu Nghĩa (2014), Tình hình
kháng kháng sinh của Pseudomonas aeruginosa phân lập được trên bệnh phẩm tại
viện pasteur, TP Hồ Chí Minh.
4. Bùi Thị Mùi, Lê Thị Ánh Hồng, Nguyễn Thanh Liêm (2010), “Tỉ lệ sinh men Beta - lactamaes phổ rộng và tính nhạy cảm kháng sinh của Klebsiella Pneumoniae gây nhiễm khuẩn đường hô hấp trẻ em từ sơ sinh đến 6 tuổi ở Bệnh
viện Nhi Trung ương”, Tạp chí Y học dự phòng, 21(7).
5. Kế hoạch hành động quốc gia về
phòng chống kháng thuốc giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2020 (Phê duyệt kèm theo
Quyết định số 2174/QĐ-BYT ngày 21 tháng 6 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế).
6. Nghiên cứu giám sát ANSORP từ
1/2000 đến 6/2001 (Song JH & ANSORP. Antimicrobial Agents And
Chemotherapy, June 2004, p. 2101–2107).
7. Nghiên cứu KONSAR từ 2005-2007 ở
các bệnh viện Korea
(Yonsei Med J. 2010 Nov;51(6):901-11).
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire