mardi 24 mai 2016

Xác định và ước lượng Độ thanh thải Creatinin



a.      Xác định Tốc độ lọc cầu thận (GFR)
Tốc độ lọc cầu thận (Glomerular filtration rate-GFR) có thể được xác định bằng cách dùng chất test đặc biệt như inulin hay I-iothalamate; điều này thỉnh thoảng được tiến hành cho những bệnh nhân bởi các chuyên gia thận học khi cần xác định chính xác chức năng thận. GFR bình thường xấp xĩ 100ml/phút/1,73m2.
GFR có thể được ước lượng bằng cách dùng công thức “Modification of Diet in Renal Disease” (MDRD) hiệu chỉnh:
eGFR (mL/phút/1,73m2) = 186.SCr-1,154.Tuổi-0,203 .(0,742 nếu là nữ).(1,21 nếu là người Mỹ gốc phi).
Trong đó:
eGFR: estimated GFR = tốc độ lọc cầu thận ước tính
Ví dụ: GFR ước tính của một bệnh nhân nam 53 tuổi, người châu Á với SCr = 2,7 mg/dL có thể được tính toán như sau: eGFR = 186.(2,7mg/dL)-1,154.(53)-0,203 = 26  mL/phút/1,73m2
Có thể dùng trang web sau để tính GFR theo công thức MDRD: https://www.qxmd.com/calculate/calculator_140/mdrd-egfr
Những điểm cần lưu ý khi dùng eGFR:
ü  Đây chỉ là một giá trị ước tính: một sai sót có thể xảy ra. eGFR thường không chính xác ở những nhóm bệnh nhân khác biệt lớn như suy dinh dưỡng, người tàn tật. Nó không đúng khi áp dụng cho phụ nữ mang thai hoặc trẻ em.
ü  Sắc tộc: một số nhóm sắc tộc không phù hợp khi dùng công thức MDRD. Nó đúng trên các bệnh nhân da đen và da trắng Mỹ.
ü  Nồng độ creatinin phải ổn định: trong nhiều ngày. Công thức không đúng nếu nồng độ creatinin thay đổi.
ü  Tuổi: Công thức không đúng với người dưới 18 tuổi
b.      Công thức tính độ thanh thải creatinin (CrCl)
Tuy nhiên, phương pháp được khuyến cáo bởi FDA và các tổ chức khác để ước lượng chức năng thận nhằm mục đích điều chỉnh liều là xác định hay ước lượng Độ thanh thải creatinin (CrCl). Creatinin là sản phẩm của chuyển hóa tại cơ và nó được thải trừ chủ yếu qua lọc cầu thận và không bị tái hấp thu hay chuyển hóa bởi ống thận. Bởi vì đặc tính này, mà nó được sử dụng như là biến số trung gian phản ánh GFR. Bởi vì creatinin cũng còn được thải trừ qua các con đường khác và khoảng 15% creatinin bài xuất trong nước tiểu là từ quá trình bài tiết ở ống lượng gần, nên độ thanh thải creatinin thường cao hơn giá trị GFR thực từ 10-15%. 
b1. Công thức tính CrCl từ thu thập mẫu nước tiểu và máu
Độ thanh thải creatinin có thể đo lường bằng cách thu thập nước tiểu trong một khoảng thời gian nhất định và thu thập mẫu máu để xác định nồng độ creatinin trong serum tại thời điểm giữa của khoảng thời gian thu thập nước tiểu:
CrCl (mL/phút) = (UCr.Vnước tiểu)/(SCr.T)
Trong đó:
Ucr: nồng độ creatinin trong nước tiểu (mg/dL)
V nước tiểu: thể tích nước tiểu thu thập (mL)
SCr: nồng độ creatinin trong serum thu thập tại thời điểm chính giữa khoảng thời gian thu thập nước tiểu (mg/dL)
T: thời gian thu thập nước tiểu (phút)
Bởi vì bài tiết creatinin qua thận thay đổi theo nhịp ngày đêm, hầu hết các nhà thận học thu thập nước tiểu trong 24 giờ để xác định độ thanh thải creatinin. Ví dụ: thu thập nước tiểu trong 24h của một bệnh nhân với các kết quả sau: Ucr = 55 mg/dL, V nước tiểu = 1000 mL, SCr = 1,0 mg/dL, T = 24 giờ x 60 phút/giờ = 1440 phút và CrCl (mL/phút) = (UCr.Vnước tiểu)/(SCr.T) = (55 mg/dL.1000 mL)/(1,0 mg/dL.1440 phút) = 38 mL/phút. Tuy nhiên, với mục đích điều chỉnh liều, khoảng thời gian thu thập nước tiểu 8-12 giờ là đủ và quay vòng nhanh hơn trong tình trạng cấp cứu. Nêu chức năng thận ổn định, mẫu máu để xác định nồng độ creatinin trong serum có thể không cần phải được thu thập tại chính xác thời điểm giữa khoảng thời gian thu thập nước tiểu.
b2. Công thức Cockroft và Gault cho người trưởng thành và không quá béo phì
Đo lường thường quy độ thanh thải creatinin của bệnh nhân thường gặp nhiều khó khăn. Thu thập nước tiểu không đủ, nồng độ creatinin trong serum thu thập không đúng thời điểm, và lỗi về thời gian thu thập mẫu có thể dẫn đến tính toán giá trị độ thanh thải creatinin sai. Điều này đã đòi hỏi các nhà nghiên cứu xây dựng các phương pháp ước lượng độ thanh thải creatinin từ giá trị creatinin trong serum và các đặc điểm khác của bệnh nhân trong các quần thể khác nhau.
Công thức được dùng phổ biến nhất cho người trưởng thành từ 18 tuổi trở lên là phương pháp được đề xuất bởi Cockcroft và Gault:
Nam: CrClước lượng = [(140 – tuổi).cân nặng]/(72.SCr)
Nữ: CrClước lượng = [(140 – tuổi).cân nặng]/(72.SCr)
Trong đó:
CrCl ước lượng: độ thanh thải creatinin ước lượng (mL/phút)
Tuổi: tính bằng năm
Cân nặng: tính bằng kg
SCr: nồng độ creatinin trong serum (mg/dL)
Với nữ, công thức trên cần nhân với 0,85 bởi vì phụ nữ có khối lượng cơ nhỏ hơn nam giới và vì vậy sản xuất ít creatinin mỗi ngày ít hơn.
Công thức Cockcroft-Gault chỉ nên được sử dụng khi thỏa mãn 3 điều kiện:
ü  ở bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên
ü  cân nặng thực tế nằm trong khoảng 30% cân nặng cơ thể lý tưởng
ü  nồng độ creatinin trong serum ổn định.
Công thức tính cân nặng cơ thể lý tưởng IBW:
IBW (kg) = chiều cao (cm) – x
(x = 100 cho nam trưởng thành và 105 cho nữ trưởng thành)
Ví dụ: một nam giới 55 tuổi, nặng 80kg, cao 1m75 có nồng độ creatinin trong serum là 1,9 mg/dL. Cân nặng cơ thể lý tưởng: IBWnam = chiều cao (cm) – 100 =  175 (cm) - 100 = 75 kg. Vì vậy bệnh nhân này có cân nặng thực tế (80kg) nằm trong khoảng 30% cân nặng cơ thể lý tưởng và Công thức Cockcroft-Gault có thể được dùng để tính Độ thanh thải creatinin ước tính: CrCl ước tính = CrClước lượng = [(140 – tuổi).cân nặng]/(72.SCr) = [(140 - 55).80] / (72.1,9 mg/dL) = 50 mL/phút.
B3. Bệnh nhân có khối lượng cơ giảm
Một số bệnh nhân giảm khối lượng cơ bởi vì tình trạng bệnh ảnh hưởng đến cơ hoặc không thể tập thể dục. Các bệnh nhân bị chấn thương dây thần kinh cột sống, ung thư bị teo cơ, bệnh nhân nhiễm HIV, bệnh nhân suy nhược, và bệnh nhân với chế độ ăn nghèo dinh dưỡng là những bệnh nhân mà khối lượng cơ có thể rất nhỏ, dẫn đến sản xuất creatinin thấp. Trong các trường hợp này, nồng độ creatinin trong serum là thấp bởi vì tốc độ sản xuất creatinin thấp và không phải vì độ thanh thải creatinin qua thận cao. Trong những trường hợp này, các nhà nghiên cứu đề xuất rằng nếu giá trị creatinin trong serum <1,0 mg/dL ở một bệnh nhân thì một giá trị tùy ý là 1 mg/dL được dùng trong công thức Cockcroft-Gault để ước lượng độ thanh thải creatinin. Trong khi điều này dường như làm cho giá trị ước lượng độ thanh thải creatinin gần hơn với Độ thnah thải creatinin thực tế ở những bệnh nhân này, nó cũng có thể vẫn dẫn đến ước lượng sai. Có thể cần thiết phải đo lường độ thanh thải creatinin ở những loại bệnh nhân này nếu cần xác định GFR chính xác.
B4. Nếu creatinin trong serum không ổn định
Nếu giá trị creatinin trong serum là không ổn định, mà tăng hay giảm trên một bệnh nhân, công thức Cockcroft-Gault không thể được dùng để ước lượng độ thanh thải creatinin. Trong trường hợp này, một phương pháp khác được đề xuất bởi Jelliffe và Jelliffe phải được dùng. Bước đầu tiên trong phương pháp này là ước lượng sản xuất creatinin. Công thức ước lượng này khác nhau giữa nam và nữ vì sự khác nhau về khối lượng cơ giữa nam và nữ:
Essnam = IBW[29,3 – (0,203.tuổi];
Essnữ = IBW[25,1 – (0,175.tuổi]
Trong đó:
Ess: sự bài tiết creatinin
IBW: cân nặng cơ thể lý tưởng (kg)
Tuổi: năm
Phần còn lại của công thức điều chỉnh quá trình sản xuất creatinin theo chức năng thận và điều chỉnh giá trị độ thanh thải ước lượng dựa theo chức năng thận tốt hơn hay xấu đi.

B5. Các bệnh nhân quá béo phì
Nếu các bệnh nhân vượt quá 30% cân nặng cơ thể lý tưởng, các phương pháp khác để ước lượng độ thanh thải creatinin nên được dùng. Dùng cân nặng cơ thể lý tưởng (IBW) hoặc cân nặng cơ thể điều chỉnh (Adjusted body weight) thay thế cho cân nặng cơ thể thực tế (actual body weight) trong công thức Cockcroft-Gault cho ước lượng chính xác độ thanh thải creatinin ở bệnh nhân béo phì.
Cân nặng cơ thể điều chỉnh = IBW + 0,4(ABW – IBW)
Tuy nhiên, một phương pháp đặc biệt đề xuất bởi Salazar và Corcoran để ước lượng độ thanh thải creatinin cho bệnh nhân béo phì cho thấy thường cho giá trị cao hơn:

B6. Cho trẻ em và người trưởng thành trẻ tuổi dưới 20
Các phương pháp ước lượng độ thanh thải creatinin cho trẻ em và người trưởng thành trẻ tuổi cũng có dựa theo tuổi:
0-1 tuổi: CrClước lượng (mL/phút/1,73m2) = (0,45.Chiều cao)/Scr;
1-20 tuổi: CrClước lượng (mL/phút/1,73m2) = (0,55.Chiều cao)/Scr
Trong đó:
Chiều cao: cm
SCr: mg/dL
Chú ý là với những công thức này, độ thanh thải ước tính được chuẩn hỏa cho 1,73m2 là diện tích bề mặt cơ thể ở người trưởng thành nam với khoảng 1,78m chiều cao và 70kg cân nặng.

 TS.DS. Võ Thị Hà
Tài liệu tham khảo:
1. Larry A. Bauer (2008). Applied Clinical Pharmacokinetics 2nd.

2. Creatinine Clearance, Serum and 24-Hour Urine.Link: http://www.mayomedicallaboratories.com/test-catalog/Clinical+and+Interpretive/8500


 

 




mardi 17 mai 2016

Dược động học ở bệnh nhân béo phì

DƯỢC ĐỘNG HỌC Ở BỆNH NHÂN BÉO PHÌ

Nguồn: Luc EC De Baerdemaeker, Eric P Mortier, Michel MRF Struys. Pharmacokinetics in obese patients. Oxford Journals. Link: http://ceaccp.oxfordjournals.org/content/4/5/152.full

Dịch: SVD. Nguyễn Xuân Quý, ĐH Dược Hà Nội
Hiệu đính: DS. Nguyễn Thị Quỳnh Trang, BV Đa Khoa Đà Nẵng
Một trong những vấn đề trong việc gây mê cho bệnh nhân béo phì là ảnh hưởng của tình trạng này tới dược động học và dược lực học của thuốc. Bởi vì liều khuyến cáo thường dựa trên dữ liệu dược động học từ những cá thể có cân nặng bình thường nên việc dùng thuốc ở bệnh nhân béo phì khá khó khăn; vì vậy, thường có sai lầm trong việc xác định liều phù hợp. Ở những bệnh nhân có bệnh  kèm, chức năng các cơ quan liên quan tới thải trừ thuốc (như thận, gan) có thể bị ảnh hưởng làm cho dược động học trở nên khó khăn và phức tạp hơn.
Nhiều hướng dẫn thực hành để hiệu chỉnh liều đã được đưa ra trong bài báo này. Tuy nhiên, trong một số trường hợp (như siêu béo phì,  BMI > 55), những khuyến cáo của chúng tôi trở nên không phù hợp. Hiểu biết hiện tại của chúng tôi vẫn còn bị hạn chế hoặc chưa chắc chắn bởi vì các rối loạn bệnh lý kèm theo. Trong những trường hợp này, việc giám sát dược lực học chặt chẽ rất cần thiết để định lượng việc chỉ định thuốc gây mê nhằm đạt tác dụng lâm sàng mong muốn.
Những điểm chính
Béo phì ảnh hưởng đến dược động học của nhiều thuốc gây mê đường tĩnh mạch.
Dược động học của thuốc gây mê dạng hít thế hệ mới ít chịu ảnh hưởng của béo phì.
Cân nặng lý tưởng có ích khi đánh giá liều của nhiều (không phải tất cả) thuốc gây mê hiện đại.
Gần đây kĩ thuật gây mê kiểm soát nồng độ đích (target-controlled infusion TCI) cho propofol, remifentanil và sufentanil xem xét các tham số như tuổi, giới, cân nặng và chiều cao giúp cải thiện việc hiệu chỉnh liều ở người béo phì.


 
         

 Thay đổi trong dược động học
          Thay đổi sinh lý bệnh ở bệnh nhân béo phì có thể ảnh hưởng tới phân bố và thải trừ thuốc. Bác sĩ gây mê phải có kĩ năng cao để định lượng thuốc sử dụng trong khoảng trị liệu hẹp của các thuốc này nhằm hướng tới hiệu quả điều trị cụ thể. Hầu hết họ giảm liều dựa vào kinh nghiệm và trực giác. Tuy nhiên, hiểu biết tốt hơn về dược động học có thể cải thiện định lượng liều thuốc.
          Kích cỡ có phải vấn đề quan trọng trong định lượng liều thuốc ? Trước khi trả lời câu hỏi này, bác sĩ phải đánh giá đúng “cân nặng” nào nên được sử dụng để tính toán liều: cân nặng cơ thể toàn bộ (Total Body Weight - TBW), cân nặng cơ thể không có mỡ (Lean Body Weight - LBM) hay là cân nặng cơ thể lý tưởng (Ideal Body Weight - IBW)? TBW được định nghĩa là cân nặng cơ thể thực tế.

Cân nặng cơ thể lý tưởng IBW có thể được ước tính theo công thức:
IBW (kg) = chiều cao (cm) – x
(x = 100 cho nam trưởng thành và 105 cho nữ trưởng thành)

Cân nặng cơ thể không có mỡ LBM có thể được tính theo công thức dưới đây:
LBM nam = 1,1(khối lượng) – 128(khối lượng/chiều cao)2
LBM nữ = 1,07(khối lượng) – 148(khối lượng/chiều cao)2

          Hầu hết, liều khuyến cáo in trên gói sản phẩm được tính theo TBW (không phải theo LBM hay IBW) và giả định rằng dược động học tỉ lệ với khối lượng. Vì thế, có nhiều chiến lược khác nhau để hiệu chỉnh liều ở bệnh nhân béo phì, ví dụ như theo TBW, LBM, IBW hoặc không điều chỉnh liều. Trong bài báo của Bouillon và Shafer đã cho thấy việc tiếp cận các chỉ số cân nặng này (là một hàm số của giới, chiều cao và TBW) có thể được sử dụng trên lâm sàng khi không chắc chắn về mối quan hệ thật sự giữa kích thước và dược động học. Cân nặng này sau đó có thể được nhân với các liều đã công bố. Có thể thấy trong Hình 1 và 2, việc tính toán lại cân nặng là quan trọng với những người có cân nặng lớn hơn IBW. Khi TBW lớn hơn IBW, TBW sẽ trở nên quá cao so với LBM. Với những người có cân nặng nhẹ hơn IBW thì TBW và LBW tương tự nhau.

Hình 1. Biểu đồ cho bệnh nhân nam liên quan giữa tổng khối lượng cơ thể (Total body weight) (kg), chiều cao (cm) và giới với khối lượng cơ thể không có mỡ (LBM) được tính theo công thức: LBM = 1.1(cân nặng) – 128(cân nặng/chiều cao)2.


Hình 2. Biểu đồ cho bệnh nhân nữ liên quan giữa tổng khối lượng cơ thể (Total body weight) (kg), chiều cao (cm) và giới với khối lượng cơ thể không có mỡ (LBM) được tính theo công thức: LBM = 1.07(cân nặng) – 148(cân nặng/chiều cao)2.

          Các thông số dược động học cơ bản như thể tích phân bố Vd, độ thanh thải (Cl) và khả năng liên kết protein huyết tương có thể thay đổi ở một số thuốc trên bệnh nhân có kèm theo béo phì. Các thuốc thân lipid cao như các barbiturate và benzodiazepine có sự tăng đáng kể Vd. Các thuốc thân lipid kém sẽ ít hoặc không thay đổi Vd. Trường hợp ngoại lệ không theo quy tắc này là remifentanil, một chất thân lipid cao nhưng thể tích phân bố thay đổi không đáng kể ở bệnh nhân béo phì. Kết quả là, Vd tuyệt đối gần như không thay đổi và liều nên được tính dựa trên IBW.
Các thuốc thân lipid kém hoặc trung bình có thể tính liều dựa trên IBW hoặc chính xác hơn là theo LBM. Những giá trị này không giống nhau bởi vì 20 - 40% sự gia tăng TBW của một bệnh nhân béo phì có thể là do tăng LBM. Thêm 20% liều vào liều ước tính theo IBW của các thuốc thân nước là đủ để bao gồm thêm khối lượng cơ tăng thêm. Những thuốc chẹn thần kinh-cơ không khử cực có thể được tính theo cách này. Tuy nhiên, succinylcholin là một ngoại lệ, liều thường được tính theo TBW.
          Đa số các thuốc gây mê rất thân lipid. Tăng Vd  được kì vọng ở các chất thân lipid nhưng không có sự chứng minh nhất quán trong các nghiên cứu dược lý bởi vì các yếu tố như sự thải trừ của cơ quan đích, khả năng liên kết protein. Vd các thuốc tan trong nước ít bị ảnh hưởng bởi béo phì hơn là các thuốc thân lipid.
Ứng dụng dược động học ở bệnh nhân béo phì
          Dược động học ở bệnh nhân béo phì khác với bệnh nhân gầy ở nhiều đặc điểm nhưng hiểu biết của chúng ta chưa được hoàn chỉnh. Vậy những dữ liệu này được sử dụng như thế nào trên thực hành gây mê hằng ngày?
Các thuốc gây mê đường hô hấp
          Halothane tích lũy đáng kể tại các mô mỡ và tăng nguy cơ chuyển hóa tại gan ở người béo phì, vì vậy làm tăng nguy cơ viêm gan do halothane. Enflurane có hệ số phân bố khí máu giảm nhanh khi tăng tình trạng thừa cân, có lẽ do giảm MAC. Bệnh nhân béo phì chuyển hóa halothane và enflurane nhiều hơn bệnh nhân bình thường. Nồng độ flo vô cơ tăng gấp đôi ở người béo phì, tăng nguy cơ độc tính trên thận của flo sau một đợt dài sử dụng enflurane.
Dược động học của nhiều thuốc gây đường hô hấp mới dường như không bị ảnh hưởng bởi béo phì và chúng được sử dụng một cách an toàn mà không có vấn đề nghiêm trọng nào. Bởi vì khả năng hòa tan khí máu thấp, sevoflurane và desflurane cho thấy thời gian khởi mê và phục hồi nhanh chóng ở bệnh nhân béo phì. Một vài thử nghiệm đã quan sát thấy nồng độ cao hơn một cách đáng kể của flo vô cơ ở những bệnh nhân được gây mê bằng sevoflurane, trong khi những hoạt chất khác không tìm thấy sự khác biệt.
Chất chuyển hóa chủ yếu của desfluran là flo vô cơ và trifluoroacyl chloride, chất này có thể liên kết với protein mô hoặc tạo acid trifluoroacetic trong nước tiểu. Chỉ có một trường hợp độc tính trên gan của desflurane được báo cáo. Desflurane là thuốc lựa chọn gây mê dạng hít tốt hơn isoflurane hay propofol ở quần thể bệnh nhân béo phì bởi vì nó gây mê và phục hồi nhanh hơn, và thực tế desflurane là thuốc hòa tan vào mô mỡ thấp nhất. Ngược lại, Oberg và cộng sự lại xem isolurane là thuốc lựa chọn cho bệnh nhân béo phì vì thuốc này có xu hướng giảm tạo ra ion fluoride và độc tính trên cơ quan ít hơn, đặc biệt khi so với halothane và enflurane.
Các thuốc gây mê đường tĩnh mạch
          Bệnh béo phì ảnh hưởng tới việc sử dụng hầu hết các thuốc gây mê đường tĩnh mạch. Sử dụng IBW hay TBW trong việc dùng thuốc là một trong những vấn đề chính. Bảng 1 cung cấp một số hướng dẫn thường được áp dụng với thuốc tiêm tĩnh mạch.
Bảng 1. Sử dụng tổng khối lượng cơ thể (TBW) hay là cân nặng cơ thể lý tưởng (IBW) để tính liều cho bệnh nhân béo phì.
Thuốc
Tính liều theo khuyến cáo
Propofol
Bắt đầu: IBW
Duy trì: TBW hoặc IBW + (0,4 × cân nặng thừa ra)
Fentanyl
TBW
Cân nặng điều chỉnh = IBW + (0,4 × cân nặng thừa ra)
Thiopental
7,5 mg/kg IBW hoặc
TBW
Midazolam
TBW cho liều đầu
IBW cho liều tiếp tục
Vecuronium
IBW
Atracurium
TBW
Liều đầu 0,15 mg/kg – 2,3 mg/10 kg  > 70kg
Liều bổ sung 0,15 mg/kg – 0,7 mg/10 kg > 70 kg
Cistracurium
TBW
Rocuronium
IBW
Succinylcholine
TBW
> 140 kg: Tối đa 120-140 mg
Mivacurium
TBW. Liều chia ra 0,15 mg/kg + sau đó 30 giây 0,15 mg/kg
Neostigmine
TBW
Alfentanil
IBW hoặc cân nặng điều chỉnh
TBW
Sufentanil
TBW. Dùng cân nặng điều chỉnh khi BMI > 40
Remifentanil
IBW
Morphine
IBW
Paracetamol
IBW

Thiopental
          Ở bệnh nhân béo phì, thiopental có Vd tăng và thời gian bán thải (t1/2) dài hơn, nhưng giá trị độ thanh thải (Cl) không đổi. Từ năm 1969 đã đưa ra khuyến cáo liều thiopental nên dựa theo LBM. Tuy nhiên, Buckley và cộng sự kiến nghị một mức liều cao hơn (7,5 mg/kg) dựa vào IBW. Sự cần thiết của mức liều cao hơn này được giải thích là do cung lượng tim thường tăng lên ở bệnh nhân béo phì, kết quả là nồng độ đỉnh của thiopental trong huyết tương thấp hơn.
          Propofol
          Ở bệnh nhân béo phì bệnh lý, liều propofol có thể được tính theo IBW. Mặc dù có tính thân lipid cao nhưng propofol không tích lũy. Vì vậy, liều của propofol để duy trì mê ở bệnh nhân béo phì gần như tương tự với người gầy với cân nhắc cân nặng thực tế của bệnh nhân và bảo đảm không có nguy cơ đặc biệt gây tích lũy thuốc.  Tuy nhiên, điều này sẽ yêu cầu chỉ định liều cao propofol. Tác dụng huyết động của liều cao propofol vẫn đang còn được đánh giá trên bệnh nhân béo phì. Nồng độ propofol vào lúc kết thúc phẫu thuật sau khi được truyền với tốc độ cố định phụ thuộc vào TBW. Điều này có nghĩa là khi bệnh nhân được gây mê bởi propofol dựa theo TBW, có thể dẫn đến hôn mê sâu và ảnh hưởng tim mạch. Dựa vào tính chất dược động học của propofol, kế hoạch dùng liều thuốc được xây dựng sao cho nhanh chóng đạt và duy trì nồng độ nhất định không đổi ở tổ chức (ví dụ một kế hoạch dùng thuốc như sau: 21 mg/kg/h trong 5 phút, 12 mg/kg/h trong 10 phút, duy trì 6 mg/kg/h). Cân nặng sử dụng được tính theo công thức kinh nghiệm:
Cân nặng điều chỉnh = cân nặng lý tưởng + (0.4 × cân nặng thừa ra).
          Các mô hình dược động học ba ngăn khác nhau được xây dựng để mô tả dược động học của propofol. Các mô hình này được áp dụng trên các thiết bị TCI để tiêm propofol. Ban đầu, tất cả mô hình được bắt nguồn từ bệnh nhân gầy. Trong một cơ sở lâm sàng, hệ thống “Diprifusor” (AstraZeneca, London) là thiết bị TCI đầu tiên được thương mại hóa, , sử dụng bộ dữ liệu dược động học Marsh. Gần đây, các thiết bị TCI propofol khác đã có mặt trên thị trường cho. Những máy bơm này dùng các mô hình khác, ví dụ mô hình Schnider.
          Khi sử dụng TCI cho propofol, các thiết bị TCI yêu cầu nhập các đặc điểm cá thể bệnh nhân. Cân nặng nào là phù hợp khi gây mê ở bệnh nhân bị béo phì? Bộ dữ liệu dược động được công bố bởi Marsh và cộng sự là cân nặng tỉ lệ (weight proportional). Hầu hết bác sĩ gây mê cảm thấy rằng bệnh nhân béo phì có thể bị quá liều khi sử dụng chế độ liều theo cân nặng bình thường. Vì vậy, hiệu chỉnh liều theo LBM đã được đề nghị. Gepts và cộng sự khuyến cáo dùng cân nặng hiệu chỉnh (IBW + 0.4 × cân nặng thừa ra). Gần đây hơn, bộ dữ liệu dược động propofol của Schnider và cộng sự kiến nghị nên sử dụng LBM thay vì cân nặng thông thường. Điều này đã đưa ra kết luận rằng đưa vào mô hình các thông số cân nặng, chiều cao, LBM đã cải thiện sự phù hợp đáng kể so với bất kì sự kết hợp chỉ có 2 trong 3 biến số trên.
          Tuy nhiên, điều này lại ngược với những gì Schüttler và cộng sự đã công bố. Các nhà nghiên cứu đã công thứ dược động học của propofol, trong đó có các yếu tố tuổi, cân nặng cơ thể, giới tính; và tại cùng một thời điểm đã đánh giá sự biến thiên dược động học nội cá thể và giữa các cá thể khác nhau. Ảnh hưởng của cân nặng cơ thể tới độ thanh thải và thể tích các ngăn có thể được mô hình hóa tốt nhất với số mũ < 1. Với bệnh nhân mà chiều cao đã biết, các thông số dược động học cá thể không có mối tương quan tốt hơn với LBW so với cân nặng cơ thể thực tế.
          Midazolam
Đã chứng minh được Vd và t1/2 tăng tương ứng với cân nặng cơ thể nhưng độ thanh thải tổng Cl không thay đổi. Vì vậy, midazolam nên được chỉ định với liều tuyết đối lớn hơn, nhưng liều tương đương trên một đơn vị cân nặng cơ thể. Tình trạng an thần kéo dài có thể xảy ra do liều khởi đầu lớn để đạt được nồng độ huyết tương mong muốn. Tốc độ truyền liên tục nên được hiệu chỉnh theo IBW hơn là TBW.
          Nhóm Opioid
          Theo lý thuyết, béo phì ảnh hưởng một các đáng kể tới dược động học các thuốc thân lipid, bao gồm alfetanil, fentanyl và sufentanil. Điều này là do phần ngoại vi được đặc trưng bởi số lượng lớn mô mỡ, dẫn đến kéo dài β-t1/2. Dược động học của fentanyl cho thấy thuốc này không bị ảnh hưởng bởi béo phì, do đó  fentanyl được khuyến cáo chỉ định và tính liều theo IBW. Béo phì làm giảm Cl và kéo dài β-t1/2 của alfentanil nhưng không ảnh hưởng nồng độ đỉnh trong huyết tương hay Vd. Vì vậy, liều nạp và liều duy trì của alfentanil nên tính theo LBM. Tuy nhiên, các ý kiến khác lại cho rằng béo phì không ảnh hưởng Cl của alfentanil nhưng lại có mối liên hệ trực tiếp với thể tích ngăn trung tâm. Trong mô hình này, liều nạp và duy trì nên tính theo TBW.
          Trong một nghiên cứu trên bệnh nhân bị béo phì về so sánh tác dụng của remifentanil, alfentanil và fentanyl trên đáp ứng tim mạch để đặt nội khí quản, cân nặng điều chỉnh (IBW + 0.4 × cân nặng thừa ra) được sử dụng cho tất cả opioid. Sau khi gây mê, huyết áp động mạch giảm ở tất cả các nhóm nhưng trong giới hạn cho phép. Kết quả cho thấy dược động học của sufentanil đã thay đổi ở bệnh nhân béo phì: Vd tăng và β-t1/2 kéo dài.  Lượng chất béo nhiều hơn được cho là nguyên nhân dẫn đến Vd lớn hơn ở trạng thái cân bằng và t1/2 kéo dài. Ngược lại, thể tích phân bố trên một kg cân năng (Vd/kg trong đó cân nặng được tính theo TBW) tương tự nhau ở nhóm béo phì và không béo phì cho thấy rằng thuốc ít nhất cũng được phân bố rộng rãi ở phần cân nặng thừa tương tự như phân bố trong LBM. Trong các nghiên cứu dược động học và ước lượng mô hình của sufentanil, các tác giả khác nhau đã thấy không phải cân nặng và LBM là các biến số quan trọng của mô hình. Những nghiên cứu này đã loại trừ bệnh nhân bị béo phì trong nghiên cứu, vì vậy nhiều tác giả chocrằng không một mô hình nào trên đây có thể áp dụng, và cả cân nặng thực hay LBW đều không thể là biến số có thể áp dụng vào mô hình của họ. Tuy nhiên, bộ thông số dược động của Gepts và cộng sự được lấy từ quần thể người có cân nặng bình thường, đã dự đoán chính xác nồng độ trong huyết tương của sufentanil ở bệnh nhân béo phì. Với BMI > 40, mô hình này tiên lượng quá cao nồng độ sulfentanil. Khi dùng TCI sulfentanil với bộ dược động của Gepts và cộng sự, không cần phải hiệu chỉnh cân nặng.
          Tuổi và LBM là các yếu tố quan trọng bắt buộc phải được xem xét khi xác định chế độ liều của remifentanil. Tuy nhiên, dược động học của remifentanil không khác nhau nhiều giữa người béo và gầy. Vì vậy, dược động remifentanil liên quan chặt chẽ với LBM hơn là TBW. Do đó, trên lâm sang, liều remifentanil nên dựa vào IBW hoặc LBM mà không phải TBW. Liều theo TBW ở bệnh nhân béo phì có thể dẫn tới nồng độ remifentanil quá cao, gây ra tác dụng không mong muốn như ngừng thở, co cứng ngực, chậm nhịp tim và hạ huyết áp.
          Paracetamol
          Thể tích phân bố Vd của paracetamol tăng lên ở người béo phì và ở nam giới hơn là nữ giới. Độ thanh thải tăng lên với cân nặng, vì vậy thông số này lớn hơn ở bệnh nhân béo phì và ở nam giới. Diện tích dưới đường cong của paracetamol đường uống ở bệnh nhân béo phì khi hiệu chỉnh theo IBW phù hợp hơn so với khi hiệu chỉnh theo TBW. Liều tính theo TBW có thể dẫn tới độc tính cao hơn so với  tính liều theo IBW.
          Thuốc ức chế thần kinh-cơ
          Khi dùng succinylcholine ở thanh thiếu niên hoặc người lớn béo phì, liều nên tính theo TBW. Đã có báo cáo rằng một tổng liều nhỏ của succinylcholine (120-140 mg) đã đủ để có thể đặt nội khí quản ở bệnh nhân > 140 kg. Cũng có giả định rằng liều của mivacurium nên tính theo TBW nhưng chưa có dữ kiện nào về điều này.
          Liều rocuronium cũng được khuyến cáo nên dựa vào IBW. Tuy nhiên, dữ kiện liên quan tới thời gian tác dụng của atracurium ở bệnh nhân béo phì còn mâu thuẫn. Một số nghiên cứu cho thấy thời gian tác dụng của atracurium phụ thuộc vào cân nặng vì vậy khuyến cáo liều tính theo TBW. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu khác nghi vấn điều này. Ví dụ, độ thanh thải theo TBW (độ thanh thải tuyệt đối/TBW) nhỏ hơn một cách đáng kể ở người béo phì so với người bình thường, Vd tuyệt đối ở bệnh nhân có cân nặng 45-98 kg không tăng theo sự tăng TBW.
          Dữ liệu về sử dụng cisatracurium trên người béo phì hiện rất ít. Có sự khác nhau về dược động học của cisatracurium besilate trên các quần thể (như phương pháp gây mê, tuổi, giới, độ thanh thải creatinine và tình trạng béo phì). Tuy nhiên, những điểm khác nhau này, không liên quan tới sự khác nhau trên lâm sàng về khả năng phục hồi nhưng có thể liên quan tới sự khác nhau về thời gian tác dụng.
          Ức chế thần kinh cơ quá liều có thể gây tử vong ở bệnh nhân béo phì và thường được chỉ định dùng thuốc đối kháng. Thời gian đối kháng của neostigmine phụ thuộc vào TBW và BMI. Vì vậy, TBW có thể được sử dụng để tính liều.

Tài liệu tham khảo chính
Blouin RA, Kolpek JH, Mann HJ. Influence of obesity on drug disposition.
Clin Pharm 1987; 6: 706–14
Bouillon T, Shafer SL. Does size matter? Anesthesiology 1998; 89: 557–60
Buckley FP. Anaesthesia for the morbidly obese patient. Can J Anaesth 1994;
41 : R94–R100
Gepts E, Shafer SL, Camu F, et al. Linearity of pharmacokinetics and model
estimation of sufentanil. Anesthesiology 1995; 83: 1194–204
Gepts E. Pharmacokinetic concepts for TCI anaesthesia. Anaesthesia 1998;
53 (Suppl. 1): 4–12
Marsh B, White M, Morton N, Kenny GN. Pharmacokinetic model driven
infusion of propofol in children. Br J Anaesth 1991; 67: 41–8
Oberg B, Poulsen TD. Obesity: an anaesthetic challenge. Acta Anaesthesiol Scand
1996; 40: 191–200
Schnider TW, Minto CF, Gambus PL, et al. The influence of method of
administration and covariates on the pharmacokinetics of propofol in
adult volunteers. Anesthesiology 1998; 88: 1170–82
Schuttler J, Ihmsen H. Population pharmacokinetics of propofol: a multicenter
study. Anesthesiology 2000; 92: 727–38
Wada DR, Bjorkman S, Ebling WF, Harashima H, Harapat SR, Stanski DR.
Computer simulation of the effects of alterations in blood flows
and body composition on thiopental pharmacokinetics in humans.
Anesthesiology 1997; 87: 884–99