mercredi 30 décembre 2015

Trẻ tử vong sau tiêm Quinvaxem, đâu là đáp án thực sự?

SKĐS - Thực tế hầu hết các ca tử vong sau tiêm Quinvaxem tại Việt Nam đều là trùng hợp ngẫu nhiên do bệnh lý khác mắc kèm. Các dấu hiệu bất thường và tử vong sau tiêm cũng rất dễ bị quy kết sai lầm là do tiêm chủng.

Tại Việt Nam, Quinvaxem được đưa vào chương trình TCMR từ 6/2010. Đến 5/2013 (3 năm) có 43 tác dụng có hại nghiêm trọng (TDCHNT), trong đó 27 ca tử vong được báo cáo sau khi dùng Quinvaxem.

Kết quả đánh giá độc lập của WHO cho thấy dường như 9 trường hợp hồi phục có thể là những phản ứng liên quan đến vắc xin, hiếm gặp nhưng đã biết trong y văn. Các trường hợp TDCHNT khác, bao gồm cả tử vong được báo cáo ở VN là hoặc trùng hợp với các vấn đề sức khỏe ngẫu nhiên nhưng không liên quan đến Quinvaxem hoặc các trường hợp mà thông tin thu được không cho phép đưa ra quyết định khẳng định. Tuy nhiên, những ca tử vong và nghiêm trọng này không có các yếu tố có thể liên quan đến dùng vắc xin. Hai tháng sau, vào 7/2013, WHO tiếp tục cập nhật khẳng định chất lượng của các lô vắc xin. Đến tháng 11/2013, vắc xin này được đưa vào tiêm tiếp cho trẻ. Và từ 2013 cho đến nay đã có khoảng 24,9 triệu liều Quinvaxem đã sử dụng với trung bình 4,5 triệu liều/năm cho 1,5 triệu trẻ.

Quinvaxem an toàn tại Việt Nam

Thứ nhất, dựa vào kết luận đánh giá của các Hội đồng tư vấn chuyên môn đối với các trường hợp gặp TDCHNT và tử vong tại Việt Nam. Theo báo cáo của Cục Y tế dự phòng - BYT, trong thời gian từ 1/1/1015 đến 20/9/2015, có 16 TDCHNT và 8 trẻ tử vong sau khi tiêm Quinvaxem, trong đó có 7 trẻ tử vong được hội đồng đánh giá là do trùng hợp ngẫu nhiên với một bệnh lý mắc kèm khác như: bệnh tim bẩm sinh, não úng thủy, sinh non, nhiễm trùng đường tiêu hóa. Chỉ có duy nhất một ca được cho là do sốc phản vệ. Tới đây Bộ Y tế sẽ thành lập một hội đồng chuyên môn với sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành của y tế đánh giá lại các kết luận của hội đồng tuyến tỉnh sau đó sẽ đưa ra quyết định. Tất cả các thông tin này đều được đăng công khai trên trang web của Cục Y tế dự phòng - BYT.

Kết luận của hội đồng về nguyên nhân tử vong:
Trường hợp Kết luận
Tử vong sau tiêm Quinvaxem ngày 21/4/2015 tại Bắc Giang Trẻ tử vong do trùng hợp ngẫu nhiên trên bệnh nhân tim bẩm sinh, nguy cơ cao dẫn tới tử vong.
Tử vong sau tiêm Quinvaxem ngày 13/5/2015 tại Khánh Hòa Trẻ tử vong do trùng hợp ngẫu nhiên trên bệnh nhân bị não úng thủy, viêm phổi.
Tử vong sau tiêm Quinvaxem ngày 26/6/2015 tại Đã Nẵng Trẻ tử vong không liên quan đến tiêm chủng, nghĩ đến nguyên nhân do trùng hợp ngẫu nhiên ở trẻ sinh non, thiếu ký.
Tử vong sau tiêm Quinvaxem ngày 7/7/2015 tại Đồng Nai Trẻ tử vong do sốc nhiễm trùng đường tiêu hóa, không liên quan tới tiêm chủng.
Tử vong sau tiêm Quinvaxem ngày 26/7/2015 tại Nam Định Trẻ tử vong do suy hô hấp nặng/bệnh nhân dị dạng đường thở, không liên quan tới vắc xin và thực hành tiêm chủng.
Từ song sau tiêm Quinvaxem ngày 3/9/2015 tại Đắc Nông
Trẻ tử vong chưa rõ nguyên nhân, loại trừ nguyên nhân do chất lượng vắc xin và tiêm chủng.
Tử vong sau tiêm Quinvaxem ngày 20/10/2015 Nghệ An Trẻ tử vong vì sốc phản vệ, không liên quan chất lượng vắc xin hay không liên quan đến quy trình tiêm chủng.
Tử vong sau tiêm Quinvaxem ngày 25/10/2015 tại Hải Dương Trẻ tử vong là do sốc nhiễm khuẩn trên nền nhiễm khuẩn huyết, không có bằng chứng liên quan đến vắc xin và quy trình tiêm chủng.

Thứ hai, dựa trên so sánh dữ liệu về an toàn của Quinvaxem với nhiều tiêu chí khác nhau. Từ năm 2007 đến 1/2014 có 63 ca tử vong sau dùng Quinvaxem và trong 9 tháng từ 1/2015 đến 9/2015 có 8 tử vong. Giả sử tỷ lệ gặp TDCHNT và tử vong của năm 2014 tương tự năm 2015 thì sẽ có khoảng 11 ca tử vong năm 2014. Vậy tổng số có khoảng 82 ca tử vong tương ứng với khoảng 24,9 triệu liều Quinvaxem dùng từ năm 2007 đến 9/2015.

So sánh tỷ lệ gặp tử vong trong các nghiên cứu và tỷ lệ gặp thực tế tại Việt Nam
Trong các nghiên cứu, tương ứng có 0,96 ca tử vong/1.000 mũi tiêm và không có trường hợp tử vong được cho là có liên quan đến dùng vắc xin. Tại Việt Nam, với khoảng 24,9 triệu mũi tiêm có khoảng 82 ca tử vong tương ứng 0,0033 ca tử vong/1.000 mũi tiêm và cũng không có ca tử vong nào được cho là do vắc xin. Như vậy, tỷ lệ bị TDCHNT và tử vong trên thực tế tại Việt Nam thấp hơn rất nhiều lần trong các nghiên cứu lâm sàng (thấp hơn 290 lần) và đều không có ca nào được khẳng định là do vắc xin.

So sánh tỷ lệ tử vong của trẻ sau tiêm Quinvaxem và tỷ lệ tử vong của trẻ do tất cả các nguyên nhân
Tỷ lệ tử vong trẻ trên 1 tháng tuổi và dưới 1 tuổi (khoảng tuổi tiêm 3 liều Quinvaxem) là 0,0125/ngày/1.000 trẻ. Nếu bao gồm tất cả các nguyên nhân gây tử vong, dự kiến có khoảng 104 trẻ tử vong có thể xuất hiện với 8,3 triệu trẻ vào ngày tiêm vắc xin, do tình cờ. Trên thực tế chỉ có 82 trẻ tử vong. Như vậy, tỷ lệ tử vong của trẻ sau tiêm Quinvaxem nhỏ hơn tỷ lệ tử vong của trẻ tử vong do tất cả các nguyên nhân. Theo Cục dự phòng - BYT, hàng ngày ước tính ở Việt Nam có khoảng 70 trẻ em dưới 1 tuổi bị tử vong không rõ nguyên nhân hoặc do các nguyên nhân khác nhau. Nếu các dấu hiệu của bệnh chưa được phát hiện tại thời điểm tiêm chủng thì rất dễ có sự trùng hợp giữa thời điểm bệnh tiến triển và tiêm chủng, vì thế các dấu hiệu bất thường và tử vong sau tiêm rất dễ bị quy kết sai lầm là do tiêm chủng. Điều này cũng xảy ra tương tự tại Mỹ, FDA và Viện thuốc Hoa Kỳ xem xét 206 ca tử vong báo cáo sau khi tiêm vaccin trong suốt 1990-1991. Chỉ có một ca tử vong được tin là do vắc xin. Viện thuốc Hoa Kỳ cũng đi đến kết luận là hầu hết các ca tử vong báo cáo là ngẫu nhiên và không do tiêm vắc xin.

So sánh tỷ lệ tử vong của trẻ khi tiêm Quinvaxem trong chương trình TCMR và tỷ lệ tử vong của trẻ khi tiêm dịch vụ
Việc sử dụng 2 loại vắc xin Infanrix Hexa và Pentaxim tại các cơ sở tiêm chủng dịch vụ chỉ bằng 8% so với vắc xin Quinvaxem. Cho đến nay, chúng ta chưa ghi nhận trẻ tử vong do tiêm vắc xin dịch vụ. Việt Nam đã dùng 24,9 triệu mũi Quinvaxem và có khoảng 82 trẻ tử vong, như vậy cần có ít nhất 304.000 mũi tiêm mới phát hiện 1 trẻ tử vong. Vì vậy, với 100.000-200.000 mũi tiêm vô bào dịch vụ/năm chưa phát hiện ca tử vong nào cũng không loại trừ khả năng là số mũi tiêm dịch vụ chưa đủ lớn để phát hiện một ca tử vong. Thêm vào đó, gần đây, bởi vì ho gà có xu hướng xuất hiện ở các trẻ vị thành niên mặc dù đã được dùng vắc xin vô bào dịch vụ ở nhiều nước khi còn nhỏ đã làm các nhà lâm sàng đặt câu hỏi về khả năng bảo vệ dài hạn của vắc xin vô bào là không đủ. Nên những cuộc thảo luận đang diễn ra ở nhiều nước quanh chủ đề là có nên quay lại dùng vắc xin toàn tế bào ở những nước đã dùng vắc xin vô bào hay không.

tiêm chủng mở rộng hay tiêm chủng dịch vụ, biện pháp nào an toàn 
Ảnh minh họa.

 

Có nên tiêm Quinvaxem hay không?

Ở góc độ quản lý, việc quyết định có nên giữ Quinvaxem là vắc xin trong chương trình TCMR hay không, có những giải pháp nào thay thế là một câu hỏi cần sự đánh giá tổng thể của nhiều chuyên gia liên quan đến nhiều yếu tố. Cần so sánh Quinvaxem với các lựa chọn thay thế trên nhiều yếu tố hiệu quả, an toàn, kinh tế, tổ chức. Việc tiến hành này đòi hỏi số lượng lớn các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực khác nhau, dựa trên các nguồn dữ liệu phong phú, tin cậy, khách quan. Kết quả của việc đánh giá, so sánh này cho phép đưa ra quyết định có lợi nhất cho cộng đồng ở góc nhìn vĩ mô.

Ở góc độ cá nhân của mỗi gia đình có trẻ trong độ tuổi cần đi tiêm chủng Quinvaxem, từ những dữ liệu hiện có về tính hiệu quả đã được khẳng định của Quinvaxem, cũng như các dữ liệu về TDCHNT hay tử vong tại Việt Nam vẫn thấp hơn khi so sánh với nhiều tiêu chí khác nhau, trong khi nguồn vắc xin thay thế Quinvaxem rất hạn chế hiện tại và nguy cơ nhiều dịch bệnh bùng phát trong thời gian tới, lợi ích mang lại khi dùng Quinvaxem vẫn cho thấy vượt trội hơn so với nguy cơ mà nó gây nên.

TS.DS. Võ Thị Hà, giảng viên ĐH Y Dược Huế
Bài được đăng trên Báo "Sức khỏe và Đời sống" ngày 30.12.2015.  
http://suckhoedoisong.vn/tre-tu-vong-sau-tiem-quinvaxem-dau-la-dap-an-thuc-su-n110471.html

Phân tích đơn thuốc Đái tháo đường



Ông A có các cơn hạ đường huyết khi dùng Victoza (liraglutid)
Người dịch : Trấn Phương Thảo, SVD%, ĐH Dược Hà Nội.
Người hiệu đính: DS. Đỗ Thị Hà, BV Roanne, Pháp
Nguồn: Le Moniteur des pharmacies | N° 3016 | Cahier 2 | 25 janvier 2014.
Tình huống :
Ông T., 62 tuổi, bị tiểu đường typ 2, thừa cân và hút thuốc lá, được diều trị bắng metformin 1000 mg glimepiride 4 mg và  Xelevia (sitagliptine).
Tuy nhiên việc điều trị bằng ba thuốc ĐTĐ đường uống không đủ để ổn định đường huyết cho bệnh nhân: kết quả hóa sinh mới nhất của ông là HbA1c> 8%. Theo yêu cầu của bác sĩ, ông T đã đến bác sĩ nội tiết tư vấn, và bác sĩ đã thay Xelevia bằngVictoza (Liraglutid).
-          Đơn thuốc mới:
Metformine 1 000 mg : 1 viên vào sáng, trưa, tối (uống khi ăn).
Glimepiride 3 mg : 1 viên trước bữa sáng.
Victoza dung dịch tiêm 6 mg/ml : 0,6 mg/ ngày trong 1 tuấn sau đó 1,2 mg/ngày trong 1 tháng.
Ngoài ra ông T còn đang điều trị rối loạn lipid máu và tăng huyết áp bằng Pravastatine và Irbersartan.
·          
      Tiếp nhận đơn:
1. Đơn thuốc cho ai:
Ông T., 62 tuổi, thừa cân, hút thuốc lá.
2. Do bác sĩ nào?
Bác sĩ nội tiết.
3. Đơn thuốc có phù hợp quy chế?
·          
      Hoàn cảnh của đơn thuốc là gì?
1. Thông tin của bệnh nhân?
Lối sống tốt, hút thuốc lá, dù cố gắng để bỏ thuốc lá, tăng huyết áp, tăng cholesterol máu vừa phải, đang được theo dõi bệnh tiểu đường typ 2 trong 4 năm.
2. Lý do của tư vấn?
Các bác sĩ đa khoa khuyên bệnh nhân đến chuyên khoa nội tiết để cải thiện việc kiểm soát bệnh tiểu đường.
3. Bác sĩ đã nói gì với bệnh nhân?
" Xelevia được thay bởi Victoza, 1 thuốc đường tiêm khác với insulin và điều đó sẽ giúp kiểm soát trọng lượng của bác. Ban đầu, bác sẽ cần phải đo đường huyết 4 lần 1 ngày "
4. Xác định tiền sử bệnh nhân
Tiền sử dùng thuốc cho thấy bệnh nhân thường xuyên dùng các thuốc hạ đường huyết và các thuốc khác( Pravastatin và Irbersartan). Ông T đã có mấy đo đường huyết tại nhà từ khi uống sulfonylure, và ông đo 2-3 lần 1 tuần.
·        
         Việc kê đơn có nhất quán?
1.  Đơn thuốc gồm những gì?
Metformin, thuốc điều trị đái tháo đường đường uống bằng cách giảm sản xuất glucose ở gan và tăng cường sử dụng glucose ở cơ quan. Thuốc không gây hạ đường huyết.
Glimepiride, một sulfamide hạ đường huyết, kích thích tiết insulin độc lập với glucose máu.
Liraglutide (Victoza bút tiêm sẵn đa liều) là một chất giống GLP-1, một hormone incretin nội làm tăng tiết insulin phụ thuộc glucose, làm chậm làm rỗng dạ dày và gây ra cảm giác
no.

2. Đơn thuốc đã phù hợp?
Có. 3 thuốc bệnh nhân điều trị trước đó không giúp ông đạt mục tiêu điều trị "HbA1c ≤8% ", do đó việc thay đổi là phù hợp. Việc chuyển sang chất chủ vận GLP-1 là đặc biệt chỉ định cho bệnh nhân béo phì và / hoặc những người mà việc tăng cân do phải điều trị bằng Insulin là nỗi bận tâm lớn với họ, như trong ca của ông T.
Thuốc chủ vận GLP-1 được chỉ định dùng kết hợp với Metformin và/ hoặc 1 sulfamid.

3. Có bất kỳ chống chỉ định nào cho bệnh nhân này?
Không. Suy thận nang có chống chỉ định việc sử dụng các sulfonamide và metformin. Metformin cũng chống chỉ định trong suy gan và bệnh nhân có bệnh lý hay hoàn cảnh dễ dẫn đến toan lactic(suy tim hoặc suy hô hấp, suy thận, mất nước, nhiễm trùng cấp tính nặng, nghiện rượu).
Liraglutide không chống chỉ định đặc biệt.

4. Có bất kỳ tương tác trong đơn
Không. Thỉnh thoảng thuốc chủ vận GLP-1 có thể làm tăng nguy cơ hạ đường huyết gây ra do sulfamid.

5. Liều thuốc đã phù hợp?
Ông T nói ông vẫn còn một hộp glimepiride và metformin. Ong chỉ cần mua Victoza.
Sự kết hợp của Victoza với sulfamid thường dẫn đến giảm liều Sulfamid, để hạn chế nguy cơ hạ đường huyết. do đó, các bác sĩ kê đơn 3 mg glimepiride thay vì liều 4 mg. Cần phải nói rõ với bệnh nhân là từ nay bệnh nhân sẽ dùng Glimepirid liều 3 mg. Đề nghị bệnh nhân trả lại thuốc liều 4mg cho hiệu thuốc. Bác sĩ cũng đã yêu cầu bệnh nhân tăng cường kiểm tra đường huyết.
Tăng dần liều Victoza được khuyến nghị để hạn chế rối loạn tiêu hóa. Nếu cần thiết, liều có thể được tăng lên đến 1,8 mg / ngày. Các bút tiêm được sử dụng với kim tiêm chiều dài tối đa 8 mm và đường kính 32 G (RCP).
Liều tối đa khuyến cáo cho metformin là 3 g mỗi ngày.

6. Việc kê đơn có gây một vấn đề gì cụ thể không?
Kiểm tra xem bệnh nhân biết xử trí hạ đường huyết và các triệu chứng hạ đường huyết chưa.

7. Việc điều trị có đòi hỏi theo dõi đặc biệt không?
Tăng cường theo dõi đường huyết tại nhà hạn chế nguy cơ hạ đường huyết.
Việc kiểm soát HbA1c trong 2-3 tháng sẽ đánh giá hiệu quả của điều trị trong việc kiểm soát đường huyết.
·        
          Những lời khuyên:
Trên Victoza: Đây là lần đầu tiên bệnh nhân được điều trị bằng thuốc này.
1. Việc sử dụng thuốc :
Tiêm liraglutide được thực hiện dưới da một lần mỗi ngày bất cứ lúc nào trong ngày. Do đó, bệnh nhân phải chọn thời điểm phù hợp nhất với mình và dễ theo dõi nhất. Thời điểm tiêm có thể được thay đổi mà không cần điều chỉnh liều nhưng tốt hơn là tiêm vào 1 thời gian cố định trong ngày.
Bút tiêm được thiết kế để cung cấp 3 liều khác nhau tùy chọn: 0,6 mg (liều khởi đầu); 1,2 và 1,8 mg (liều duy trì). Cần cấp cho ông T. 2 bút tiêm (mỗi bút chứa 15 liều 1,2 mg). Dành thời gian để đọc các hướng dẫn với bệnh nhân để giải thích cho họ cách tiêm. Tiêm được thực hiện dưới da ở vùng bụng (giống như insulin), đùi hoặc cánh tay trên. Phải nhớ các quy tắc vệ sinh: da sạch, rửa tay cẩn thận trước khi tiêm. Kim nên được bỏ đi sau khi tiêm. Ông T., người tự giám sát glucose máu, phải có một bộ thu kim.

2. Khi nào bắt đầu điều trị?
Ông T. đã dùng Xelevia và glimepiride sáng nay.
Ông sẽ bắt đầu Victoza ngày hôm sau, với liều sulfamide mới.

3. Phải làm gì nếu bệnh nhân quên?
Việc tiêm nên được thực hiện càng sớm khi nhớ ra, nhưng không tiêm 2 liều trong cùng một ngày.

4. Bệnh nhân sẽ tự đánh giá hiệu quả của việc điều trị?
Đúng. Các kết quả đường huyết phải đạt được mục tiêu điều trị.

5. Các tác dụng không mong muốn chính là gì?
Ngoài nguy cơ hạ đường huyết khi sử dụng cùng với sulfonamid, các chất tương tự GLP-1 gây rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, tiêu chảy đôi khi táo bón, nôn mửa ...) khi
bắt đầu điều trị. Hạn chế điều này bằng cách thích ứng liều dần dần. Hơn nữa, việc sử dụng thuốc dường như có liên quan đến nguy cơ tiềm tàng viêm tụy.

6. Những tác dụng không mong muốn nào có thể quản lý tại hiệu thuốc?
Rối loạn tiêu hóa sẽ khỏi sau một vài ngày. Bệnh nhân phải uống đủ nếu tiêu chảy hay nôn ói để tránh mất nước.
Ông T. nên biết những dấu hiệu cảnh báo hạ đường huyết (run rẩy, đổ mồ hôi, xanh xao, đói) và biết làm thế nào để xử lý. Nhắc nhở bệnh nhân các trường hợp dễ dẫn đến hạ đường huyết, bao gồm cả ăn uống không thường xuyên, bỏ bữa hay ăn quá ít, uống nhiều rượu.

7. Những dấu hiệu cần gọi bác sĩ?
Dấu hiệu tiêu hóa nặng lên hoặc dấu hiệu viêm tụy (đau nặng, dữ dội ra sau lưng) yêu cầu cần có tư vấn y tế.
8, Câu hỏi của bệnh nhân
M. T. là lo ngại vì ông sẽ tham gia đi bộ trong 10 ngày tới. Với người không quen vận động thể lực như ông T, liệu có nguy cơ hạ đường huyết khi dùng 1 thuốc mới?
M. T. không nên thay đổi điều trị. Thật vậy, không giống như insulin, các chất tương tự của GLP-1 không đòi hỏi sự thích nghi với liều. Nếu phải vận động thể chất bất thường, bệnh nhân nên lường trước rủi ro hạ đường huyết bằng cách dùng thực phẩm thích hợp: đường chậm trước khi tập thể dục với lượng vừa đủ, đường nhanh và bữa phụ (trái cây, bánh mì, nước) trong quá trình đi bộ.

9. Về phần còn lại của việc điều trị
M. T. quen với việc dùng metformin và glimepiride.
Việc tuân thủ điều trị có vẻ đúng vì việc cấp thuốc diễn rất thường xuyên.

10. tác dụng không mong muốn
Metformin: rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, tiêu chảy, đau bụng, rối loạn vị giác) chủ yếu được tìm thấy khi bắt đầu điều trị. Nhiễm toan lactic (hiếm gặp nhưng có thể gây tử vong) dễ xuất hiện khi dinh dưỡng không đủ, uống nhiều rượu, suy chức năng thận (mất nước, NSAID ...).
Chức năng thận nên thường xuyên đánh giá trong khi điều trị metformin.
Glimepiride: Hạ đường huyết là tác dụng phụ chủ yếu của sulfamid.

11. Thời điểm dùng thuốc :
Metformin: tốt nhất sau bữa ăn để giảm rối loạn tiêu hóa.
Glimepiride : ngay trước khi ăn sáng (đủ tinh bột) hoặc bữa ăn đầu tiên trong ngày. Nếu bỏ bữa hoặc bữa ăn không chứa đủ đường chậm, không nên dùng sulfamid.

12. Dấu hiệu cảnh báo
Đau bụng, tiêu chảy, nôn, chuột rút, khó thở là dấu hiệu cho thấy toan lactic và bẳt buộc tư vấn khẩn cấp.

13. Lời khuyên bổ sung
Kiểm tra hàng ngày glucose mao mạch là cần thiết do bắt đầu dùng thuốc mới, nhưng sau đó sẽ cần cách quãng.Xác minh rằng Ông T biết thời gian thực hiện (glucose máu ít nhất một lần lúc đói và sau bữa ăn).
Giảm cân sẽ cho phép kiểm soát tốt hơn bệnh tiểu đường và các yếu tố nguy cơ tim mạch khác (tăng huyết áp, tăng cholesterol máu ...): giảm ăn đường nhanh, các loại thực phẩm béo, ăn đủ tinh bột và chất xơ. Khuyến khích bệnh nhân để tăng cường hoạt động thể lực: đi bộ, làm vườn ...
Đề nghị bệnh nhân tham khảo ý kiến chuyên gia cai thuốc lá và nhắc nhở ông rằng, ngưng hút thuốc lá làm giảm nguy cơ biến chứng của bệnh tiểu đường, tăng huyết áp và rối loạn lipid máu.
Kiểm tra rằng ông T cso máy đo huyết áp tự động. khuyên bệnh nhân giám sát huyết áp chặt chẽ vì Victoza có thể gây hạ huyết áp.

14. Can thiệp
Ông T. trở lại một tuần sau đó. Glucose máu của ông là rất thấp vào buổi chiều muộn. Có được tăng liều Victoza như mong đợi?  Giải thích cho bệnh nhân phải làm gì:
"Liều Victoza nên được tăng để đảm bảo hiệu quả, tuy nhiên cũng cần liên lạc lại với bác sĩ để  xem lại liều sulfamide”
Kế hoạch uống thuốc:

8h
13h
20h
Metformin
X
X
X
Glimepirid
X


victoza
X
 Metformin: uống trong hoặc sau khi ăn.
Glymepirid: uống ngay trước hoặc trong bữa sáng.
Victoza: tiêm dưới da bất kì thời điểm nào trong ngày, nên vào một giờ cố định trong ngày. Bảo quản ở 2-8 độ C trước khi sử dụng, 1 tháng ở nhiệt độ trên 30 độ C sau khi mở.

mardi 29 décembre 2015

Tổng quan về hiệu quả và an toàn của Quinvaxem từ các dữ liệu trong y văn (bài rút ngắn)



Tổng quan về hiệu quả và an toàn của Quinvaxem từ các dữ liệu trong y văn (bài rút ngắn)
TS.DS. Võ Thị Hà, giảng viên ĐH Y Dược Huế
Thông tin liên lạc: Thi Ha VO, Equipe ThEMAS, Labo TIMC-IMAG, 38700 La Tronche, France. Email: havothipharma@gmail.com
 

Vắc xin Quinvaxem còn gọi là vắc xin “5 trong 1” là vắc xin phối hợp gồm giải độc tố vi khuẩn bạch hầu (BH), uốn ván (UV), vi khuẩn ho gà bất hoạt toàn tế bào (HG), kháng nguyên vi rút viêm gan B (VGB) và kháng nguyên vi khuẩn Haemophilus influenzae type b (Hib) phòng hai bệnh chính là viêm phổi và viêm màng não.

1. Phương pháp tra cứu thông tin của Quinvaxem trong y văn như thế nào ?
Hiện nay, chủ đề về an toàn và hiệu quả của Quinvaxem đang được cộng đồng quan tâm, là một dược sĩ chuyên về dược lâm sàng, đang học nghiên cứu sinh năm cuối tại Pháp, với điều kiện tiếp cận các cơ sở dữ liệu y khoa đầy đủ, tôi đã giành ra trọn vẹn hơn 2 tuần để tổng hợp các thông tin liên quan đến Quinvaxem trong y văn. Thủ thuật tìm kiếm thông tin bằng cách sử dụng từ khóa "Quinvaxem" trên cơ sở dữ liệu y khoa nổi tiếng Pubmed thu được 8 nghiên cứu liên quan.

2. Có những nghiên cứu nào liên quan đến Quinvaxem ?
Có 8 nghiên cứu chính liên quan đến Quinvaxem đã được xác định. Sau khi hoàn thành các nghiên cứu Penta 001 (tại Thổ Nhĩ Kỳ), Penta 002 (tại Argentina), Penta 004 (tại Nam Phi), 005 (tại Salvador) tiến hành trên 150-360 trẻ dùng Quinvaxem, dựa trên các dữ liệu an toàn - hiệu quả thu được từ 4 nghiên cứu này, Quinvaxem nhận được chứng chỉ "tiền chất lượng" của Tổ chức y tế thế giới (WHO). Sau đó, một nghiên cứu hậu mãi Penta PMS được tiến hành nhằm thu thập chủ động các tác dụng có hại (TDCH) khi sử dụng Quinvaxem trên một quần thể lớn gồm 3.000 trẻ tại Guatemala. Nghiên cứu Penta 006 (Ấn Độ) và Penta 008 (Việt Nam) được tiến hành để thử tính hiệu quả/an toàn của Quinvaxem trước khi phê duyệt dùng Quinvaxem rộng rãi tại Ấn Độ và Việt Nam. Nghiên cứu Penta 007 tại Phillipine để thử khả năng chuyển đổi vaccin khác sang Quinvaxem. 

3. Bằng chứng liên quan đến hiệu quả của Quinvaxem như thế nào ?
Hiệu quả về sinh miễn dịch của Quinvaxem được đánh giá bằng cách đo nồng độ kháng thể kháng kháng nguyên đặc hiệu ở trẻ trước và sau khi tiêm đủ liều (3 liều) vắc xin hoặc sau khi tiêm liều tăng cường (liều thứ 4). Quinvaxem cho thấy có tác dụng sinh miễn dịch cao. Một tháng sau khi được tiêm vắc xin, trên 97% trẻ có đủ kháng thể để phòng bệnh HB-HG-UV và Hib và 91-98% trẻ có khả năng phòng bệnh VGB [1].  

4. Bằng chứng liên quan đến an toàn của Quinvaxem như thế nào ?
Tính an toàn và khả năng dung nạp được đánh giá trong tất cả các nghiên cứu lâm sàng. Các TDCH không nghiêm trọng cũng tương tự như các loại vaccin khác bao gồm: các phản ứng tại chỗ (đỏ, chai cứng da nơi tiêm, đau); các phản ứng trên hệ thống (sốt, ngủ li bì, tiêu chảy, dễ kích thích, khóc bất thường, khóc dai dẳng...).

Mọi người đang quan tâm đến thông tin liên quan đến tác dụng có hại nghiêm trọng (TDCHNT) và tử vong, nên tôi sẽ phân tích kỹ dữ liệu này. TDCHNT là những trường hợp gây tử vong, các bệnh đe dọa tính mạnh, khuyết tật vĩnh viễn, đòi hỏi nhập viện hay kéo dài thời gian nằm viện [2]. Kết quả của nghiên cứu Penta PSM chỉ giới thiệu tại Hội nghị dưới dạng bài tóm tắt ngắn, thiếu một số thông tin nên tôi loại nghiên cứu này trong số liệu tổng hợp. Trong 7 nghiên cứu (Penta 001, 002, 004, 005, 006, 007, 008) tiến hành trên 1.568 trẻ với 4.159 mũi tiêm Quinvaxem, có 51 TDCHNT (tương ứng 12 ca/1.000 mũi tiêm) và trong đó có 4 TDCHNT liên quan đến dùng vắc xin (tương ứng 0,96 ca/1.000 mũi tiêm) và 4 trường hợp tử vong (tương ứng 0,96 ca/1.000 mũi tiêm) và 0 trường hợp tử vong được cho là có liên quan đến dùng vắc xin (0%). Các trường hợp TDCHNT được đánh giá là liên quan đến dùng vắc xin là viêm tiểu phế quản, co giật, giảm đáp ứng - giảm trương lực, tăng huyết áp, kích thích. Các TDCHNT khác bao gồm: viêm phổi-phế quản do vi rút, viêm phổi, nhiễm virus hô hấp hợp bào, viêm tiểu phế quản, nhiễm khuẩn do virus, thiếu máu, trào ngược dạ dày thực quản. Như vậy, TDCHNT và tử vong đều đã được ghi nhận trong y văn, tuy nhiên tỷ lệ gặp TDCHNT được cho là do vaccin rất thấp (chưa đến 1 ca trên 1.000 mũi tiêm) và không có trường hợp tử vong nào được xác định là do vaccin.
Bảng 1 tổng hợp các thông tin về an toàn Quinvaxem trong các nghiên cứu.


Bảng 1. Thông tin về an toàn Quinvaxem trong các nghiên cứu.
STT
Nghiên cứu
quốc gia tác giả (năm)
Lịch tiêm
SL trẻ
SL trẻ/nhóm chứng
TDCHNT
TDCHNT do vaccin
Tử vong
Tử vong do vaccin
1
Penta 001
Thỗ Nhĩ Kì
Kanra G at al. (2006) [3]

2-3-4 tháng
152
151
0
0
0
0
2
Penta 002 Argentina
Gentile A et al. (2011) [4]

2-4-6 tháng
218
-
26
1
1
0
3
Penta 004 Nam Phi
Aspinall S et al. (2012) [5]
6-10-14 tuần
360
-
9
0
2
0
4
Penta 004 Nam Phi
Aspinall S et al. (2012) [5]
18+3 tháng (liều tăng cường)
227
-
-
-
-
-
5
Penta 005 Salvador
Suarez E at al. (2010) [6]
Liều tăng cường, tiêm tại tháng thứ 15-24
150
149
0
0
0
0
6
Penta SPM Guatemala
Asturias EJ at al. (2011) [7]

2-4-6 tháng
3.000
-
-
-
-
-
7
Penta 006
Ấn Độ
Eregowda A et al (2014) [8]
6-10-14 tuần tuổi
161
-
3
0
KR
KR
8
Penta 007
Philippin
Capedinga MRZ et al. (2014) [9]
6-10-14 tuần tuổi
400
200
2
0
1
0
9
Penta 008
Vietnam
Huu et al (2012) [10]
2-3-4 tháng
131
-
11
0
0
0
Tổng




51
4
4
0



5. Các dữ liệu an toàn tại một số nước trên thế giới ra sao ?

Vắc xin Quinvaxem do hãng Berna Biotech, Hàn Quốc sản xuất, đạt tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và được WHO khuyến cáo sử dụng từ năm 2006. Tính tới năm 2013, hơn 400 triệu liều vắc xin Quinvaxem đã được sử dụng ở 91 quốc gia. Vaccin Quinvaxem cũng là vaccin 5 trong 1 được sử dụng nhiều nhất trên thế giới. Các vaccin 5 trong 1 khác như Pentavac, Easyfive-TT, Shan5 chỉ được sử dụng với khoảng 24-55 triệu liều.

Hội tư vấn toàn cầu về an toàn vắc xin (GACVS) vào 6/2013 về an toàn của Quinvaxem đã báo cáo tình hình an toàn khi sử dụng Quinvaxem tại 4 nước châu Á: Bhutan, Sri Lanka, Ấn Độ và Việt Nam [11]. Ở cả 4 nước đều phát hiện rải rác một số trẻ gặp TDCHNT hay tử vong nên cơ quan chức năng cùng WHO đã cho tạm dừng sử dụng Quinvaxem một thời gian để tiến hành điều tra, đánh giá kịp thời.  Tại Việt Nam, Quinvaxem được đưa vào chương trình TCMR từ 6/2010. Dữ liệu về hiệu quả và an toàn của Quinvaxem cũng đã được đánh giá sơ bộ trên 113 trẻ trước khi Quinvaxem được đưa vào dùng rộng rãi [10]. Từ 6/2010 đến 5/2013 (3 năm) có 43 TDCHNT, trong đó 27 ca tử vong được báo cáo sau khi dùng Quinvaxem. Do đó, cơ quan chức năng cho dừng tiêm Quinvaxem vào 6/2013 mà mời các chuyên gia WHO cùng các chuyên gia Việt Nam đánh giá các trường hợp nói trên. Kết quả đánh giá độc lập của WHO cho thấy dường như 9 trường hợp hồi phục có thể là những phản ứng liên quan đến vắc xin, hiếm gặp những đã biết trong y văn. Các trường hợp TDCHNT khác, bao gồm cả tử vong được báo cáo ở VN là hoặc trùng hợp với các vấn đề sức khỏe ngẫu nhiên nhưng không liên quan đến Quinvaxem hoặc các trường hợp mà thông tin thu được không cho phép đưa ra quyết định khẳng định. Tuy nhiên, những ca tử vong và nghiêm trọng này không có các yếu tố có thể liên quan đến dùng vaccin[12]. Hai tháng sau, vào 7/2013, WHO tiếp tục cập nhật khẳng định chất lượng của các lot vaccin [13]. Đến tháng 11/2013, vaccin này được đưa vào tiêm tiếp cho trẻ [14]. Và cho từ 2013 đến nay đã có khoảng 24,9 triệu liều Quinvaxem đã sử dụng với trung bình 4,5 triệu liều/năm cho 1,5 triệu trẻ [15].

Như vậy, với các dữ liệu và đánh giá của các chuyên gia của nước sở tại phối hợp cùng các chuyên gia của WHO tại 4 nước đều đi đến kết luận thống nhất là các trường hợp tử vong hoặc là do trùng hợp với các vấn đề sức khỏe ngẫu nhiên nhưng không liên quan đến Quinvaxem hoặc là thông tin lâm sàng thu được không cho phép đưa ra quyết định khẳng định, trong khi lợi ích mang lại của Quinvaxem là vượt trội hơn so với nguy cơ, nên ở cả 4 nước đều cho phép dùng lại Quinvaxem.

6. Những lập luận nào chứng tỏ Quinvaxem là an toàn tại Việt Nam ?
Thứ nhất, dựa vào kết luận đánh giá của các Hội đồng tư vấn chuyên môn đối với các trường hợp gặp TDCHNT và tử vong tại Việt Nam. Theo báo cáo của Cục dự phòng - BYT [16], trong thời gian từ 1/1/1015 đến 20/9/2015, có 32 trường hợp TDCHNT trong đó 16 tử vong được ghi nhận từ nhiều loại vaccin khác nhau, trong đó có 16 TDCHNT và 8 tử vong sau khi tiêm Quinvaxem. Trong số 32 trường hợp đã được Hội đồng tư vấn chuyên môn đánh giá (Hội đồng cấp tỉnh) kết luận 10 trường hợp do trùng hợp ngẫu nhiên (chiếm 31%), trong đó có 09 trường hợp tử vong và 01 trường hợp hồi phục; 15 trường hợp do sốc phản vệ/phản ứng quá mẫn và phản ứng sau tiêm vaccin đã hồi phục (chiếm 47%)7 trường hợp tử vong không rõ nguyên nhân (chiếm 22%), căn nguyên đột tử thường gặp ở trẻ 2-4 tháng tuổi. Đây là thống kê chung cho nhiều loại vắc xin, báo cáo không cung cấp thông tin chi tiết liên quan cụ thể đến Quinvaxem. Tới đây Bộ Y tế sẽ thành lập một hội đồng chuyên môn với sự tham gia của các chuyên gia đầu ngành của y tế đánh giá lại các kết luận của hội đồng tuyến tỉnh sau đó sẽ đưa ra quyết định [17]. Tất cả các thông tin này đều được đăng công khai trên trang web của Cục dự phòng - BYT.

Thứ hai, dựa trên so sánh dữ liệu về an toàn của Quinvaxem với nhiều tiêu chí khác nhau. Vì không tìm được số liệu chính xác về số TDCHNT và tử vong trong thời gian từ khi bắt đầu dùng Quinvaxem năm 2007 đến nay (9/2015). Nên sẽ thử tính ước lượng con số này từ các dữ liệu thu được. Từ năm 2007 đến 1/2014 có 63 ca tử vong [18] sau dùng Quinvaxem và trong 9 tháng từ 1/2015 đến 9/2015 có 8 tử vong. Giả sử tỷ lệ gặp TDCHNT và tử vong của năm 2014 tương tự năm 2015 thì sẽ có khoảng 11 ca tử vong năm 2014. Vậy tổng số có khoảng 82 ca tử vong tương ứng với khoảng 24,9 triệu liều Quinvaxem dùng từ năm 2007 đến 9/2015. 

- So sánh tỷ lệ gặp tử vong trong các nghiên cứu và tỷ lệ gặp thực tế tại Việt Nam

Trong các nghiên cứu, tương ứng có 0,96 ca tử vong/1.000 mũi tiêm và không có trường hợp tử vong được cho là có liên quan đến dùng vắc xin. Tại Việt Nam, với khoảng 24,9 triệu mũi tiêm có khoảng 82 ca tử vong tương ứng 0,0033 ca tử vong/1.000 mũi tiêm và cũng không có ca tử vong nào được cho là do vắc xin. Như vậy, tỷ lệ bị TDCHNT và tử vong trên thực tế tại Việt Nam thấp hơn rất nhiều lần trong các nghiên cứu lâm sàng (thấp hơn 290 lần) và đều không có ca nào được khẳng định là do vaccin.  

- So sánh tỷ lệ tử vong của trẻ sau tiêm Quinvaxem và tỷ lệ tử vong của trẻ do tất cả các nguyên nhân

Tỷ lệ tử vong trẻ trên 1 tháng tuổi và dưới 1 tuổi (khoảng tuổi tiêm 3 liều Quinvaxem) là 0,0125/ngày/1.000 trẻ [19]. Nếu bao gồm tất cả các nguyên nhân gây tử vong, dự kiến có khoảng 104 trẻ tử vong có thể xuất hiện với 8,3 triệu trẻ vào ngày tiêm vắc xin, do tình cờ. Trên thực tế chỉ có 82 trẻ tử vong. Như vậy, tỷ lệ tử vong của trẻ sau tiêm Quinvaxem nhỏ hơn tỷ lệ tử vong của trẻ tử vong do tất cả các nguyên nhân. Theo Cục dự phòng - BYT, hàng ngày ước tính ở Việt Nam có khoảng 70 trẻ em dưới 1 tuổi bị tử vong không rõ nguyên nhân hoặc do các nguyên nhân khác nhau. Nếu các dấu hiệu của bệnh chưa được phát hiện tại thời điểm tiêm chủng thì rất dễ có sự trùng hợp giữa thời điểm bệnh tiến triển và tiêm chủng, vì thế các dấu hiệu bất thường và tử vong sau tiêm rất dễ bị quy kết sai lầm là do tiêm chủng.

- So sánh tỷ lệ tử vong của trẻ khi tiêm Quinvaxem trong chương trình TCMR và tỷ lệ tử vong của trẻ khi tiêm dịch vụ

Việc sử dụng 2 loại vaccin Infanrix Hexa và Pentaxim tại các cơ sở tiêm chủng dịch vụ chỉ bằng 8% so với vaccin Quinvaxem. Cho đến nay, chúng ta chưa ghi nhận trẻ tử vong do tiêm vắc-xin dịch vụ. Việt Nam đã dùng 24,9 triệu mũi Quinvaxem và có khoảng 82 trẻ tử vong, như vậy cần có ít nhất 304.000 mũi tiêm mới phát hiện 1 trẻ tử vong. Vì vậy, với 100.000-200.000 mũi tiêm vô bào dịch vụ/năm chưa phát hiện ca tử vong nào cũng không loại trừ khả năng là số mũi tiêm dịch vụ chưa đủ lớn để phát hiện một ca tử vong [20]. Thêm vào đó, gần đây, bởi vì ho gà có xu hướng xuất hiện ở các trẻ vị thành niên mặc dù đã được dùng vaccin vô bào dịch vụ ở nhiều nước khi còn nhỏ đã làm các nhà lâm sàng đặt câu hỏi về khả năng bảo vệ dài hạn của vaccin vô bào là không đủ. Nên những cuộc thảo luận đang diễn ra ở nhiều nước quanh chủ đề là có nên quay lại dùng vaccin toàn tế bào ở những nước đã dùng vaccin vô bào hay không [8].

- So sánh nguyên nhân tỷ lệ tử vong sau tiêm vaccin tại Mỹ

FDA và Viện thuốc Hoa Kỳ (Institute of Medicine - IOM) xem xét 206 ca tử vong báo cáo với trong suốt 1990-1991. Chỉ có một ca tử vong được tin là do vắc xin. Bệnh nhân nữ 28 tuổi chết do hội chứng Guillain-Barré sau khi tiêm vaccin uốn ván. IOM kết luận hầu hết các ca tử vong báo cáo là ngẫu nhiên và không do tiêm vắc xin.

7. So sánh Quinvaxem với các loại vaccin khác thì thế nào ?


Có nhiều lựa chọn vaccin có thể thay thế cho Quinvaxem như dùng vaccin phối hợp "3 trong 1", "4 trong 1", "5 trong 1" hay "6 trong 1" khác. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của bài báo này, chỉ tập trung tổng hợp dữ liệu về an toàn và hiệu quả của Quinvaxem. Một vaccin nếu được chứng mình là đủ hiệu quả và an toàn qua các thử nghiệm lâm sàng thì mới được cấp phép sử dụng đại trà. Còn việc lựa chọn loại vaccin nào sử dụng cho cá nhân hay cho cộng đồng lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như hiệu quả, an toàn, kinh tế, sự sẵn có, tổ chức.

8. Tương quan lợi ích và nguy cơ của Quinvaxem thế nào ?

Cần đánh giá nguy cơ khi dùng vaccin Quinvaxem trong mối tương quan với những lợi ích mà vaccin có thể mang lại trong việc phòng bệnh. Tôi xin tổng hợp ngắn gọn một số thông tin liên quan đến các bệnh mà Quinvaxem có tác dụng phòng bệnh.  

Bạch hầu: Do thực hiện tốt việc tiêm vắc-xin bạch hầu nên tỷ lệ mắc bạch hầu ở Việt Nam đã giảm dần từ 3,95/100.000 dân năm 1985 xuống 0,14/100.000 dân năm 2000 [21]. Tỷ lệ tử vong đối với bạch hầu trung bình từ 5%–10 [22]. Hiện nay, Việt Nam sau nhiều năm chỉ ghi nhận dưới 10 ca nhờ tiêm phòng vắc xin, nay đang phải đối mặt với nguy cơ bệnh bạch hầu, số mắc bệnh hàng năm chỉ trong 9 tháng đầu năm 2015 đã ghi nhận 9 trường hợp mắc, tăng so với cùng kỳ năm 2013 (2 ca) và 2014 (6 ca) [23]. Dịch bạch hầu đang bùng phát tại Lào với gần 600 ca, 11 người tử vong. Bộ Y tế Việt Nam lo ngại nguy cơ rất lớn dịch lây truyền sang các khu vực thôn bản vùng biên giới [24].

Ho gà: Tại Việt Nam, mặc dù số mắc ho gà trong những năm gần đây đã giảm hàng trăm lần so với trước khi triển khai vắc xin, song trong năm 2013 còn ghi nhận 54 ca ho gà rải rác trên toàn quốc tương ứng tỷ lệ mắc 0,06/ 100.000 dân. Tuổi mắc bệnh chủ yếu là trẻ dưới 1 tuổi (chiếm 39% số ca ho gà năm 2013). Từ đầu năm 2015 đến nay, riêng bệnh viện Nhi Trung Ương đã có gần 300 trường hợp mắc bệnh ho gà nhập viện và có 2 trường hợp tử vong. Trong đó có nhiều trẻ khoảng trên dưới 3 tháng tuổi, đa số nhóm tuổi này mắc bệnh ho gà nặng và chưa được tiêm vaccin hoặc tiêm nhưng chưa đầy đủ [25].

Uốn ván: Bệnh viện bệnh nhiệt đới, HCM đã điều trị cho 2422 bệnh nhân bị uốn ván trên 1 tuổi giữa 4/1993 đến 12/2002. Trong thời gian này Việt Nam đang triển khai dùng vaccin phòng uốn ván. Tỷ lệ trẻ dưới 10 tuổi nhập viện vì uốn ván giảm từ  11,1 xuống còn 5,6% trong vòng 10 năm (P = 0.002). Tỷ lệ tử vong cũng giảm từ 28% năm 1994 còn 10% năm 2002. Sự giảm đáng kể tỷ lệ mắc uốn ván xảy ra ở nhóm tuổi được chương trình TCMR nhắm đến (vì vaccin uốn ván trong chương trình TCMR có khả năng phòng bệnh trong 10 năm). Tỷ lệ tử vong của uốn ván từ 10 - 90% [26].

Viêm gan B: Việt Nam là nước có tỷ lệ hiện mắc viêm gan B cao; ước tính có khoảng 8,6 triệu người nhiễm vi rút viêm gan B [27]. Đây là nguyên nhân chính gây ra tới hơn 80% các ca bệnh về gan và ung thư gan [28]. Tiêm chủng vaccin viêm gan B cho tất cả trẻ sơ sinh đã được triển khai từ năm 2003. Tỷ lệ bao phủ của vaccin viêm gan B năm 2012 là 97%. Theo một cuộc khảo sát năm 2011, chỉ còn 2% trẻ dưới 5 tuổi bị nhiễm vi rút viêm gan B [27].

Bệnh liên quan đến Hib: Trên toàn quốc, mỗi năm có 5.107 ca nhập viện vì viêm phổi do H. influenzae ở trẻ dưới 5 tuổi. Một nghiên cứu khác chỉ ra rằng, Hib là căn nguyên gây tỉ lệ viêm màng não xâm lấn do vi khuẩn ở trẻ dưới 5 tuổi: 22,9 ca trên 100.000 trẻ. Nhóm tuổi có tỉ lệ mắc bệnh do Hib cao nhất là trẻ sơ sinh (87,9/100.000 trẻ) và trẻ dưới 2 tuổi (32,9/100.000) [1]. Một nghiên cứu khác chỉ ra rằng Hib là căn nguyên phổ biến thứ 2 gây ra tỉ lệ mắc bệnh nhiễm khuẩn xâm lấn ở trẻ dưới 5 tuổi: 22,9/100.000. Việc đưa vaccin Hib vào chương trình tiêm chủng sẽ giúp giảm tỉ lệ mắc bệnh nhiễm khuẩn xâm lấn ở trẻ.

9. Những khó khăn khi quy kết nguyên nhân giữa TDCHNT và tử vong với việc tiêm vaccin ? Những giải pháp ?
Theo báo cáo của GACVS, một số hạn chế được ghi nhận ở cả 4 nước: Thiếu thông tin lâm sàng đầy đủ đã làm phức tạp đáng kể về việc đánh giá nguyên nhân. Đối với một số ca, thông tin lâm sàng bổ sung cho phép xác định nguyên nhân tử vong khác được xác định. Đối với các ca khác, không đủ thông tin lâm sàng cho phép khẳng định nguyên nhân tử vong, bao gồm cả khả năng tử vong do Hội chứng tử vong sơ sinh đột ngột (SIDS) [11]. Với việc tần suất SIDS cao nhất xảy ra ở trẻ sơ sinh, mối liên hệ tạm thời giữa SIDS và việc dùng Quinvaxem được tiên lượng là do trùng hợp ngẫu nhiên.

Tuy nhiên, GACVS cũng nhấn mạnh thêm, để đánh giá tín hiệu về an toàn, điều quan trọng là các nước cần hiểu về tỷ lệ tử vong sơ sinh của nước mình và các nguyên nhân của chúng. Nếu một TDCHNT tạo nên mối lo ngại cho cộng đồng thì cần tiến hành các nghiên cứu dịch tễ bổ sung để xác định các yếu tố có thể được dùng để đánh giá các giả thuyết về nguy cơ có thể [11]. Thêm một yếu tố về văn-xã hội đặc thù tại Việt Nam, việc cho phép khám nghiệm tử thi trẻ sau khi tử vong để có thể điều tra sâu hơn về nguyên nhân thường không phải luôn được chấp nhận bởi bố mẹ và người thân của trẻ. Điều này cũng gây khó khăn hơn cho việc quy kết nguyên nhân. Một yếu tố khác là các thông tin chi tiết về quy trình đánh giá các trường hợp cụ thể không được chia sẽ công khai, có thể làm giảm niềm tin của giới chuyên môn và cộng đồng về kết luận của Hội đồng. Việc thành lập Hội đồng quốc gia đánh giá lại, với sự tham gia của nhiều chuyên gia, đặc biệt là các chuyên gia từ Trung tâm Cảnh giá dược quốc gia sẽ góp phần đưa ra một kết luận đánh giá cuối cùng hoàn chỉnh và chính xác hơn.
Cần truy cập thêm nhiều nguồn thông tin khác để có một đánh giá toàn diện hơn
Trong khi tiến hành tổng hợp bản báo cáo này, một điều khó khăn khi tổng hợp thông tin là một số thông tin quan trọng bị thiếu hoặc không đầy đủ hoặc không tiếp cận được. Việc có đầy đủ thông tin hơn, bảo đảm có một cái nhìn toàn diện và chính xác hơn.

Cần thận trọng cân nhắc yếu tố mâu thuẫn lợi ích khi đánh giá các dữ liệu, nhận định trong nhiều bài báo khoa học
Mâu thuẫn lợi ích (conflict of interest) là một tình huống mà một cá nhân hay tổ chức có nguy cơ đưa ra một đánh giá/hành động nghề nghiệp hay chuyên môn không vì lợi ích cơ bản nghề nghiệp của mình (trong trường họp đối với nhân viên y tế là sức khỏe của bệnh nhân) mà bị ảnh hưởng bởi một lợi ích khác (thường là lợi ích về tài chính). Trong cả 8 nghiên cứu chính được tổng hợp trong báo cáo này đều có một hay nhiều tác giả trong nghiên cứu là nhân viên của công ty dược liên quan đến sản xuất Quinvaxem. Vì vậy, cần tiếp cận, trao đổi và yêu cầu các dữ liệu đầy đủ, công khai, chi tiết hơn về các kết quả, diễn tiến của nghiên cứu. Và các dữ liệu này cần được đánh giá độc lập bởi các hội đồng chuyên môn độc lập - khách quan.

Các tín hiệu TDCHNT và tử vong ghi nhận từ cộng đồng nên được xử lý với tinh thần cầu thị, thận trọng
Dù cho kết quả của các nghiên cứu lâm sàng có khẳng định độ an toàn của bất kì vaccin nào, thì điều đó cũng không khẳng định chắc chắn là vaccin sẽ vẫn an toàn khi sử dụng trên diện rộng trong cộng đồng. Vì hạn chế của các thiết kế nghiên cứu là thường tiến hành trên số lượng rất ít trẻ, đặc điểm của trẻ có thể không tương đồng với đặc điểm trên thực tế của cộng đồng...nên các nghiên cứu hậu mãi tiến hành trên số lượng lớn trẻ cùng với hệ thống thu thập, đánh giá các thông tin về TDCH, TDCHNT và tử vong trong cộng đồng là thông tin rất hữu ích để bổ sung thông tin về an toàn của vắc xin.

5. Kết luận

Ở góc độ quản lý, việc quyết định có nên giữ Quinvaxem là vaccin trong chương trình TCMR hay không, có những giải pháp nào thay thế là một câu hỏi cần sự đánh giá tổng thể của nhiều chuyên gia liên quan đến nhiều yếu tố. Cần so sánh Quinvaxem với các lựa chọn thay thế trên nhiều yếu tố hiệu quả, an toàn, kinh tế, tổ chức. Việc tiến hành này đòi hỏi số lượng lớn các chuyên gia từ nhiều lĩnh vực khác nhau, dựa trên các nguồn dữ liệu phong phú, tin cậy, khách quan. Kết quả của việc đánh giá, so sánh này cho phép đưa ra quyết định có lợi nhất cho cộng đồng ở góc nhìn vĩ mô.

Ở góc độ cá nhân của mỗi gia đình có trẻ trong độ tuổi cần đi tiêm chủng Quinvaxem, từ những dữ liệu hiện có về tính hiệu quả đã được khẳng định của Quinvaxem, cũng như các dữ liệu về TDCHNT hay tử vong tại Việt Nam vẫn thấp hơn khi so sánh với nhiều tiêu chí khác nhau, trong khi nguồn vaccin thay thế Quinvaxem rất hạn chế hiện tại và nguy cơ nhiều dịch bệnh bùng phát trong thời gian tới, lợi ích mang lại khi dùng Quinvaxem vẫn cho thấy vượt trội hơn so với nguy cơ mà nó gây nên.   

Tài liệu tham khảo

1.            Schmid DA, Macura-Biegun A, Rauscher M. Development and introduction of a ready-to-use pediatric pentavalent vaccine to meet and sustain the needs of developing countries-Quinvaxem®: the first 5 years. Vaccine. 2012;30(44):6241-8.
2.            Miller Elaine R, Penina H, Hibbs Beth, Broder Karen. Manual for the Surveillance of Vaccine-Preventable Diseases.  2014  [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://www.cdc.gov/vaccines/pubs/surv-manual/chpt21-surv-adverse-events.html
3.            Kanra G, Kara A, Demiralp O, Contorni M, Hilbert AK, Spyr C, et al. Safety and immunogenicity of a new fully liquid DTPw–HepB–Hib combination vaccine in infants. Hum Vaccin. 2006;2:155-60.
4.            Gentile A, Umido V, Czerniuk P, Nacul J, Seigelchifer M, Hilbert AK, et al. Immunogenicity and reactogenicity of a combined fully liquid DTPw–HepB–Hib pentavalent vaccine in healthy infants: no clinically relevant impact of a birth dose of hepatitis B vaccine. Int J Infect Dis. 2011;15(1):e24–9.
5.            Aspinall S, Traynor D, Bedford P, Hartmann K. Lot-to-lot consistency study of the fully liquid pentavalent DTwP-HepB-Hib vaccine Quinvaxem (®) demonstrating clinical equivalence, suitability of the vaccine as a booster and concomitant administration with measles vaccine. Hum Vaccin Immunother. 2012;8(8):1109-18.
6.            Suarez E, Asturias EJ, Hilbert AK, Herzog C, Aeberhard U, C S. Suarez E, Asturias EJ, Hilbert AK, Herzog C, Aeberhard U, Spyr C. A fully liquid DTPw–HepB–Hib combination vaccine for booster vaccination of toddlers in El Salvador. Rev Panam Salud Publica. 2010;27:117-24.
7.            Asturias EJ, Contreras IL, Ram M, Rivera JG, de Melgar AJ, de Oquendo V, et al. A large, prospective observational safety study in a real life situation of cohorts vaccinated with the pentavalent combination vaccine Quinvaxem® (DTP–HepB–Hib fully liquid) when administered at 2, 4, and 6 months of age.  Poster presentation at meeting of the Sociedad Latinoamericana de Infectología Pediátrica (SLIPE); 2011.
8.            Eregowda A, Lalwani S, Chatterjee S, Vakil H, Ahmed K, Costantini M, et al. A phase III single arm, multicenter, open-label study to assess the immunogenicity and tolerability of a pentavalent DTwP–HepB–Hib vaccine in indian infants. Hum Vaccin Immunother. 2013;9(9):1903-9.
9.            Capedinga MRZ, Jicab C, Macura-Biegunb A, Rauscherb M, Albertoa E. Interchangeability of Quinvaxem during primary vaccination schedules: Results from a phase IV, single-blind, randomized, controlled, single-center, non-inferiority study. Vaccine. 2014;32(7):888-94.
10.          Huu TN, Phuong NTM, Toan NT, Thang HV, Huong VTG, Nghia CH, et al. Assessment of the immunogenicity and safety of Quinvaxem(registered trademark) (DTwP-HepB- Hib) against diphtheria, pertussis, tetanus, hepatitis B and diseases caused by H. influenzae among healthy Vietnamese children. International Journal of Infectious Diseases. 2012;16:SUPPL.1:e304–e5.
11.          WHO. Global Advisory Committee on Vaccine Safety review of pentavalent safety concerns in four Asian countries.  2013  [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://www.who.int/vaccine_safety/committee/topics/hpv/GACVSstatement_pentavalent_June2013.pdf
12.          WHO. Safety of Quinvaxem (DTwP-HepB-Hib) pentavalent vaccine.  2013  [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://www.who.int/immunization_standards/vaccine_quality/quinvaxem_pqnote_may2013/en/
13.          WHO. Update on quality and safety of Quinvaxem (DTwP-HepB-Hib) pentavalent vaccine.  2013  [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://www.who.int/immunization_standards/vaccine_quality/quinvaxem_pqnote_june2013/en/
14.          Nguyễn Hoàng. Lý do trẻ tử vong sau tiêm vắc-xin Quinvaxem gần đây: Cục trưởng Cục Y tế dự phòng nói gì? .  2015  [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://suckhoedoisong.vn/thoi-su/ly-do-tre-tu-vong-sau-tiem-vac-xin-quinvaxem-gan-day-cuc-truong-cuc-y-te-du-phong-noi-gi-20151101195954721.htm
15.          Cục Y tế dự phòng - Bộ Y tế. Nội dung cuộc phỏng vấn Ông Kohei Toda- Chuyên gia tiêm chủng của Tổ chức Y tế thế giới về sử dụng vắc xin Quinvaxem.  2015  [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://vncdc.gov.vn/vi/tiem-vac-xin-soi-rubella-tre-1-14-tuoi/764/noi-dung-cuoc-phong-van-ngai-kohei-toda-chuyen-gia-tiem-chung-cua-to-chuc-y-te-the-gioi-ve-su-dung-vac-xin-quinvaxem
16.          Cục Y tế dự phòng - Bộ Y tế. TÌNH HÌNH PHẢN ỨNG SAU TIÊM CHỦNG (Từ ngày 01/01//2015 ĐẾN 30/9/2015) 2015  [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://vncdc.gov.vn/vi/hoat-dong-nra/778/tinh-hinh-phan-ung-sau-tiem-chung-tu-ngay-01-01-2015-den-30-9-2015
17.          Hồng Hải. Liên tiếp phản ứng nặng do Quinvaxem: Không thể cứ có tai biến là thay vắc xin!  2015  [cited 2015 22 Nov]; Available from: http://dantri.com.vn/suc-khoe/lien-tiep-phan-ung-nang-do-quinvaxem-khong-the-cu-co-tai-bien-la-thay-vac-xin-20151030234839839.htm
18.          Another baby dies after Quinvaxem vaccination.  2014  [cited 2015 21 NOv]; Available from: http://tuoitrenews.vn/society/16937/another-baby-dies-after-quinvaxem-vaccination
19.          WHO Việt Nam. Sức khỏe trẻ em.   [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://www.wpro.who.int/vietnam/topics/child_health/factsheet/vi/
20.          Cục Y tế dự phòng - Bộ Y tế. Hãy đưa trẻ đi tiêm vắc xin phòng bệnh Ho gà lúc trẻ 2 tháng tuổi trong chương trình tiêm chủng mở rộng 2015  [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://vncdc.gov.vn/vi/tiem-vac-xin-soi-rubella-tre-1-14-tuoi/388/hay-dua-tre-di-tiem-vac-xin-cua-chuong-trinh-tiem-chung-mo-rong-dung-lich-va-du-mui-tiem-de-phong-benh
21.          Trung tâm Truyền thông Giáo dục Sức khỏe Trung ương - Bộ Y tế. Giới thiệu chung về bệnh bạch hầu.   [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://songkhoe.vn/gioi-thieu-chung-ve-benh-bach-hau-s20-531-65625.html
22.          CDC. Diphtheria.   [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://www.cdc.gov/diphtheria/clinicians.html
23.          Trần Phương. Nguy cơ dịch bạch hầu do tỉ lệ tiêm Quinvaxem giảm?  2015  [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://dantri.com.vn/suc-khoe/nguy-co-dich-bach-hau-do-ti-le-tiem-quinvaxem-giam-20151105225518568.htm
24.          Nam Phương. Dịch bạch hầu từ Lào sát biên giới nguy cơ lây sang Việt Nam.  2015  [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://suckhoe.vnexpress.net/tin-tuc/suc-khoe/dich-bach-hau-tu-lao-sat-bien-gioi-nguy-co-lay-sang-viet-nam-3306470.html
25.          Lê Phương. 2 ca tử vong, gần 300 bệnh nhân nhập viện vì ho gà.  2015  [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://eva.vn/tin-tuc/gan-300-truong-hop-mac-benh-ho-ga-nhap-vien-2-truong-hop-tu-vong-c73a234732.html
26.          Bệnh uốn ván. In Cẩm nang phòng chống bệnh truyền nhiễm.   [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://www.pasteurhcm.gov.vn/news/benh-uon-van-102.html
27.          WHO Việt Nam. Viêm gan B.   [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://www.wpro.who.int/vietnam/topics/hepatitis/factsheet/vi/
28.          Thịnh An. Khoảng 20% dân số Việt Nam mắc viêm gan B.  2015  [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://yteduphong.com.vn/tieng-viet/thong-tin-benh-dich/khoang-20-dan-so-viet-nam-mac-viem-gan-b-c3420i2942.htm
29.          Bệnh viện Từ Dũ. Tổng kết công tác báo cáo Phản ứng có hại của thuốc (ADR) năm 2014 từ các cơ sở  khám chữa bệnh của 63 tỉnh thành trong cả nước. .  2015  [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://tudu.com.vn/vn/tin-tuc-su-kien/thong-tin-thuoc/thong-tin-thuoc-thang-052015/
30.          Trung tâm DI & ADR Quốc gia. TỔNG KẾT CÔNG TÁC BÁO CÁO ADR 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2013.  2013  [cited 2015 21 Nov]; Available from: http://magazine.canhgiacduoc.org.vn/Magazine/Details/105