Trả lời:
Cường giáp là thuật ngữ được dùng để chỉ tình trạng tuyến
giáp tạo ra quá nhiều hormon tuyến giáp.
Nếu phụ nữ bị cường giáp và có ý định mang thai, phải trao đổi
với bác sĩ điều trị. Tốt nhất là phải điều trị và kiểm soát tốt tình trạng cường
giáp trước khi có thai, bởi vì có một số nguy cơ đối với người mẹ và sự phát
triển của bào thai nếu tình trạng cường giáp không được kiểm soát.
Những người được điều trị với iod phóng xạ hoặc phẫu thuật
thì nên đợi ít nhất 06 tháng rồi mới nên có thai. Bởi vì khi điều trị bằng các
phương pháp trên có thể dẫn đến tình trạng hormon giáp bị suy giảm nghiêm trọng,
điều này có thể làm giảm khả năng có thai cũng như ảnh hưởng đến sự phát triển
của bào thai.
Hai nhóm thuốc chính trong điều trị cường giáp gồm nhóm thuốc
kháng giáp và nhóm chẹn beta.
Thuốc kháng
giáp như là như methimazol, thiamazol (nhóm azol) hoặc propylthiouracil (PTU).
Cả 2 loại đều hiệu lực như nhau nhưng các azol được ưa thích hơn do ít tác dụng
phụ hơn PTU. Bởi vì các azol có thể có liên quan đến dị tật bẩm sinh nên PTU được
chỉ định dùng trong 3 tháng đầu thai kì, sau đó có thể chuyển trở lại dùng các
azol để giảm các tác dụng phụ.
Các thuốc
nhóm chẹn beta-blocker được chỉ định để kiểm soát các triệu chứng của bệnh như
nhịp tim nhanh, run rẩy, lo lắng… Một khi tình trạng cường giáp đã được kiểm
soát thì ngưng dùng các thuốc này.
Khi tình trạng
cường giáp được kiểm soát tốt, có thể sẽ không cần phải dùng thuốc trong thời kỳ
mang thai.
Trong quá trình mang thai, nên định kỳ xét nghiệm nồng độ hormon tuyến giáp. Xét nghiệm máu và siêu âm có thể giúp chẩn đoán thai nhi có bị tình trạng cường giáp hay không.
DS. Nguyễn Thị
Quỳnh Trang
Tài liệu tham khảo:
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire