Báo cáo “Có
sai lầm mới là con người”(To Err Is
Human) của Viện y tế Mỹ đã nhấn mạnh vấn đề hàng đầu là sai sót trong y
khoa và các nguy cơ của nó đối với sự an toàn của bệnh nhân, cũng như các sự cố
y khoa có thể phòng ngừa được.
Có
một lượng lớn công cụ, hệ thống, phương pháp hỗ trợ thực hiện khám chữa bệnh một
cách an toàn. Các công cụ phân tích có thể cung cấp những đánh giá hữu hiệu để
xác định nguyên nhân dẫn đến sai sót. Hiểu được nguyên nhân gây ra sai sót và
thất bại hết sức quan trọng, vận dụng hiểu biết đó để thay đổi quy trình có ý
nghĩa quyết định để đạt được sự hoàn thiện. Việc thiết kế các hệ thống trong đó
con người khó làm sai và dễ làm đúng được xem như là điều cốt lõi để giảm thiểu
nguy cơ.
Các
phương pháp thích hợp nhằm cải thiện mức độ an toàn và tin cậy của các quy
trình rất nhiều, trong đó có thể kể đến một số phương pháp dưới đây:
·
Giảm thiểu sự phụ thuộc vào trí nhớ bằng
việc số hoá và các nguồn tham khảo dễ
tiếp cận.
·
Đơn
giản hoá thông qua việc giảm bớt các bước không cần thiết
cũng như sự can thiệp của con người trong quy trình.
·
Tiêu
chuẩn hoá để giảm thiểu chồng chéo, sai khác, dư thừa.
·
Áp dụng các quy tắc và nghĩa vụ bắt buộc để loại bỏ hành vi không mong muốn
và đảm bảo các hành vi mong muốn.
·
Sử dụng các giao thức và quy trình kiểm tra một cách cẩn thận.
·
Cải tiến việc truy cập thông tin trong giai đoạn chăm sóc.
·
Giảm thiểu sự phụ thuộc vào ý thức cảnh
giác bằng cảnh bảo tự động và kiểm tra định
kỳ.
·
Áp dụng việc tự động hoá một cách cẩn trọng để tránh việc hình thành các sai sót
mới, sự tự mãn của nhân viên y tế và đảm bảo trách nhiệm cá nhân.
Sai sót – Một vấn đề hệ thống
Các nghiên cứu một cách hệ thống về sự cố tại tổ chức
giúp chúng ta hiểu được rằng sai sót không xảy ra một cách đơn lẻ mà được định
hình từ bản chất của tổ chức sinh ra nó.
Các
sai sót có thể gây hại trực tiếp hoặc có thể làm giảm khả năng phòng bị sẵn có.
Các sai sót này xảy ra ở mũi nhọn và được gọi là thất bại hiệu lực (active failure). Khi sự cố xảy ra, việc xác định
thất bại hiệu lực thường khá dễ dàng, đồng thời một hoặc nhiều cá nhân ở vị trí
“mũi nhọn” sẽ bị phê bình, công kích. Việc chú ý tới mũi nhọn được gọi là “tiếp cận con người” (person appoach),
vì nó chú trọng đến việc quy trách nhiệm cho các cá nhân. Vấn đề của cách tiếp
cận này là thất bại hiệu lực hầu như không do cố ý và thường không xảy ra một
cách ngẫu nhiên.
Sai
sót có xu hướng xảy ra theo một hình mẫu lặp đi lặp lại. Quá chú trọng vào sai
lầm cá nhân làm chệch sự chú ý khỏi việc “tiếp
cận hệ thống” (systems approach) để phát hiện ra nguyên nhân của sai sót.
Thất bại hiệu lực của cá nhân thường là triệu chứng của tình trạng tiềm tàng (latent conditions) sâu hơn bị bỏ qua. Các ví
dụ của tình trạng tiềm tàng bao gồm giám sát và đào tạo kém; thiết kế công việc
yếu; thiếu sự phân quyền; quy trình không thực tế hoặc không vận dụng được;
không đủ công cụ; và thiết kế, vận hành hệ thống tự động kém hiệu quả. Mỗi nguy
cơ tiềm tàng này đều là một lỗ hổng trong hàng rào bảo vệ, tương tự các lỗ khí
trên miếng phô mai Thuỵ Sĩ.
Hình 3-1
Mô hình Phô mai Thuỵ Sĩ (Swiss cheese)về
rủi ro, phòng ngừa, rào cản và đường đi của sự cố có thể gây hại.
Nguồn:
Reason J. The human error. BMJ. 2000;320:768–770.
Các
nguy cơ tiềm tàng được biểu trưng bằng
các lỗ có sẵn trên các lớp. Thất bại hiệu
lực có thể được tượng trưng bằng những lỗ mới được tạo ra. Hậu quả nguy hại
khi một rủi ro bất kỳ đi theo con đường vàng dọc theo các lỗ trên tất cả các
lát xếp thẳng hàng, tạo điều kiện cho rủi ro có thể lọt qua tất cả các hàng rào
phòng vệ và dẫn đến sự cố. Hầu hết các sự cố xảy ra khi có một sự kết hợp khác
thường của nhiều thất bại, khi xét đơn độc thì không đáng chú ý nhưng khi kết hợp
lại thì có thể tạo thành hoàn cảnh thích hợp để sự cố xảy ra.
Có
rất nhiều cấp độ tạo nên hệ thống chăm sóc y tế, mỗi cấp độ có thể cung cấp một
khung tham khảo để nhận diện yếu tố tiềm tàng nguy cơ gây hại đến bệnh nhân (Bảng
3-1).
Bảng 3.1 Các nhóm yếu tố
ảnh hưởng đến thực hành lâm sàng và góp phần gây ra sự cố
|
||
Nhóm
|
Yếu tố
|
Ví dụ về các vấn đề góp phần gây sai sót
|
Cơ chế
|
· Bối cảnh luật pháp
· Môi trường pháp lý về y tế
|
Các vấn đề về an toàn không được các cấp
quản lý ưu tiên;
các
vấn đề không được pháp luật cho phép thảo luận công khai, dẫn đến các sự cố
không được rút kinh nghiệm
|
Tổ chức và quản lý
|
· Nguồn lực và rào cản tài
chính
· Tiêu chuẩn và mục đích của
chính sách
· Ý thức về an toàn và các ưu
tiên
|
Các bậc quản lý cao cấp thiếu chú trọng đến
vấn đề an toàn; chính sách không phù hợp dẫn đến thiếu sự phân cấp nhân sự
|
Môi trường làm việc
|
· Các cấp nhân sự và hỗn hợp
các kỹ năng
· Phân chia khối lượng công việc
và ca trực
· Thiết kế, bảo trì và hiệu lực
của thiết bị
· Sự hỗ trợ về hành chính và
quản lý
|
Khối lượng công việc lớn dẫn đến kiệt sức;
khó tiếp cận các thiết bị thiết yếu; thiếu sự hỗ trợ hành chính dẫn đến giảm
thời gian tiếp xúc bệnh nhân
|
Nhóm
|
· Giao tiếp bằng lời nói
· Giao tiếp bằng văn bản
· Giám sát và tinh thần tương
trợ
· Khả năng lãnh đạo nhóm
|
Giám sát nhân viên cấp dưới không sát sao;
giao tiếp kém hiệu quả giữa các chuyên khoa; nhân viên cấp thấp ngại xin hỗ
trợ
|
Từng cá nhân nhân viên
|
· Kiến thức và kỹ năng
· Thái độ và nỗ lực
· Sức khoẻ thể chất và tinh thần
|
Thiếu kiến thức và kinh nghiệm; kiệt sức và
căng thẳng kéo dài
|
Công việc
|
· Tính sẵn có và việc sử dụng
các hướng dẫn
· Tính sẵn có và độ chính xác
của kết quả xét nghiệm
|
Không có hoặc chậm có kết quả xét nghiệm;
thiếu hướng dẫn và phác đồ rõ ràng
|
Bệnh nhân
|
· Mức độc phức tạp và nghiêm
trọng của tình trạng bệnh
· Ngôn ngữ và khả năng giao tiếp
· Tính cách và bối cảnh xã hội
|
Tình trạng nguy kịch; rào cản ngôn ngữ giữa
bệnh nhân và nhân viên y tế
|
Nguồn:
Vincent
C. Understanding and responding to adverse events. NEJM. 2003;
348:1051–1056. © 2003 Massachusetts Medical Society. All rights reserved.
|
Sai sót trong sử dụng
thuốc (medication errors)
Một sai sót trong sử dụng thuốc
được hiểu là bất kỳ sai sót nào xảy ra trong suốt quá trình điều trị bằng thuốc.
Sai sót trong sử dụng thuốc có thể được phân loại theo các giai đoạn quy trình
mà sai sót xuất hiện.
Sai sót trong kê đơn
(prescribing errors): liên quan đến việc đánh giá bệnh nhân,
đưa ra quyết định lâm sàng, lựa chọn thuốc, khoảng liều và thời gian sử dụng liệu
pháp, việc ghi chép các quyết định, việc ra quyết định điều trị hay kê đơn. Mặc
dù việc kê đơn là trách nhiệm của bác sĩ hoặc các nhân viên y tế có chuyên môn
cao khác, sai sót trong kê đơn có thể là hậu quả của một vấn đề thuộc hệ thống
như chậm trễ cung cấp các thông tin liên quan đến tiền sử dị ứng thuốc của bệnh
nhân. Sai sót trong kê đơn bao gồm thất bại trong lựa chọn phác đồ điều trị hợp
lý, thuốc được chỉ định không hiệu quả, thất bại trong việc tính toán liều dùng
chính xác, không lường trước được tương tác giữa thuốc – thuốc, thuốc – thức
ăn, tình trạng bệnh trầm trọng hoặc tình trạng quá mẫn cảm với thuốc. Sai sót
trong kê đơn cũng có thể xảy ra do đơn thuốc không rõ ràng, gây ra tình trạng
khó hiểu hoặc hiểu sai. Chữ viết cẩu thả hoặc sử dụng quá nhiều từ viết tắt
trong đơn là những nguyên nhân thường gặp gây ra sai sót trị liệu trong bước kê
đơn. Sai sót trong kê đơn có thể do khoa dược, điều dưỡng hoặc một thành viên của
đội ngũ điều trị phát hiện ra, từ đó đưa ra can thiệp để kịp thời ngăn chặn sự
cố.
Sai sót trong sao chép đơn thuốc(transcription
errors): diễn ra trong môi trường bệnh viện khi thuốc được
bác sĩ kê trong bệnh án của bệnh nhân không trùng khớp với hồ sơ sử dụng thuốc
được dùng trong quản lý và lưu trữ việc sử dụng thuốc. Sai sót trong sao chép
đơn thuốc xảy ra khi đơn thuốc viết tay của bác sĩ không được sao chép chính
xác vào hệ thống lưu trữ của khoa dược. Quy trình sao chép thường bao gồm việc
chuyển đơn thuốc cho khoa dược. Đơn thuốc có thể được chuyển đi bằng giấy tờ gửi
trực tiếp hoặc hệ thống liên lạc điện tử hoặc điện thoại, fax, scan. Khi đến
nơi, đơn thuốc sẽ được sao chép vào hệ thống thông tin của khoa dược và đồng bộ
hoá với hồ sơ sử dụng thuốc của điều dưỡng. Sai sót trong sao chép đơn thuốc có
thể tượng trưng cho thất bại trong cả việc kê đơn và sao chép đơn. Đơn thuốc
không rõ ràng là sai sót trong kê đơn, còn thất bại trong việc nhận diện hoặc
làm sáng tỏ một đơn thuốc mơ hồ là sai sót trong sao chép đơn. Nguy cơ xảy ra
sai sót trong sao chép đơn thuốc càng tăng lên nếu đơn thuốc được truyền đạt bằng
miệng hoặc qua điện thoại.
Sai sót trong cấp phát
(dispensing errors): bao gồm sai sót trong quá trình pha chế
hoặc trộn lẫn thuốc, chuyển phát thuốc từ kho đến tay bệnh nhân, kiểm tra, dán
nhẫn và những công việc giấy tờ khác. Quy trình cấp phát thường do nhân viên
khoa dược thực hiện. Tại bệnh viện, sai sót trong cấp phát xảy ra khi nhân viên
khoa dược cấp phát thuốc không đúng với chỉ định. Đối với bệnh nhân ngoại trú,
sai sót trong cấp phát diễn ra nếu thuốc được cấp phát khác với đơn thuốc. Sai
sót có thể là hậu quả của việc nhầm lẫn giữa các thuốc tên trùng nhau hoặc nhìn
giống nhau (thuốc nhìn giống nhau hay đọc giống nhau).
Sai sót trong dùng thuốc
(administration errors): liên quan đến việc đưa thuốc vào cơ
thể bệnh nhân. Thuốc có thể do điều dưỡng, người chăm sóc hoặc tự bệnh nhân
dùng. Việc dùng thuốc tuỳ thuộc vào chỉ định hoặc hướng dẫn, như dạng dùng, liều
dùng, việc dùng thuốc chính xác phải đúng đường dùng và cách dùng. Sai sót
trong dùng thuốc bao gồm bỏ liều, lặp liều, dùng thuốc sai thời điểm, dùng thuốc
không được chỉ định, dùng thuốc không đúng số lượng, không đúng đường dùng.
Dùng thuốc qua đường truyền tĩnh mạch càng có nhiều nguy cơ nếu tốc độ truyền
không hợp lý.
Sai sót trong theo dõi (monitoring
errors): liên quan đến việc đánh giá hiệu quả của phác đồ điều
trị và khả năng nhận diện các hậu quả khó lường trước được. Việc theo dõi có thể
do bệnh nhân hoặc nhân viên y tế thực hiện. Trong bất kỳ trường hợp nào đều phải
lưu trữ và phản hồi lại với bác sĩ điều trị nhằm tối ưu hoá phác đồ. Sai sót
trong theo dõi bao gồm không nhận ra được rằng hiệu quả không như mong đợi cũng
như các tác dụng có hại do thuốc gây ra.
Các mức độ sai sót
trong sử dụng thuốc được liệt kê ở Bảng 3-2
Bảng 3.2 Mức độ và trách nhiệm đối với sai sót trong sử
dụng thuốc
|
||||
Quy trình
|
Tần số
|
Bác sĩ
|
Khoa dược
|
Điều dưỡng
|
Kê đơn
|
56
|
+++
|
+
|
+/-
|
Sao chép
|
6
|
+
|
+++
|
-
|
Cấp phát
|
4
|
-
|
+++
|
-
|
Dùng thuốc
|
34
|
-
|
-
|
+++
|
Bates’ frequency data adapted
from:Leape LL, Bates DW, Cullen DJ, et al. Systems
analysis of adverse drug events: ADE Prevention Study Group. JAMA. 1995;274:35–43
|
Đánh
giá sai sót trong sử dụng thuốc
Rất
khó có thể xác định một cách đích xác tính phổ biến cũng như ý nghĩa của sai
sót trong sử dụng thuốc (ME) và biến cố có hại của thuốc (ADE). Tùy theo biện
pháp sử dụng để phát hiện và ghi nhận mà các phép đánh giá có sự biến thiên.
Các nhân viên y tế được khuyến khích tự mình báo cáo các sai sót trong sử dụng
thuốc dựa trên các mẫu báo cáo viết tay hoặc báo cáo sự cố. Quan sát trực tiếp
việc dùng thuốc, so sánh với chỉ định của bác sĩ sẽ cho chúng ta những đánh giá
chính xác và sâu sát hơn về tỷ lệ sai sót trong sử dụng thuốc. Phương pháp quan
sát trực tiếp đôi lúc không thực tế vì cần nhiều nguồn lực và phụ thuộc vào nguồn
quan sát viên đã qua đào tạo.
Dù
các phương thức báo cáo ADE khác nhau vẫn cho ra các xu hướng giống nhau. Các
sai sót do nhân viên tự báo cáo chiếm tỷ lệ thấp. Việc xem xét bệnh án được lựa
chọn ngẫu nhiên do các chuyên gia thực hiện để phát hiện ADE nhìn chung cho tỷ
lệ cao nhất, tuy nhiên các nguồn lực cần cho việc phân tích bệnh án đã giới hạn
việc sử dụng phương pháp này một cách rộng rãi. Việc sử dụng các công cụ kích hoạt (trigger tools) để
xem xét đầy đủ bệnh án nhằm đưa ra đánh giá toàn diện đã được chứng minh là hiệu
quả và tiện dụng.
Các
sai sót trong sử dụng thuốc thường xảy ra nhiều nhất trong quá trình kê đơn và dùng thuốc. Tỷ lệ gặp sai sót trong kê đơn là
15 đến 1.400 sai sót cho mỗi 1.000 ca nhập viện. Sai sót trong kê đơn cũng được
ghi nhận dưới dạng khái niệm số sai sót trên 1.000 y lệnh, với tỷ lệ từ 0,5 đến
50 sai sót trên 1.000 y lệnh trong bệnh viện. Sai sót trong dùng thuốc là sai
sót phổ biến nhất, với tỷ lệ xảy ra là từ 3-11% các liều. Nếu xét đến số liều
thuốc bệnh nhân sử dụng trung bình khi vào viện thì rõ ràng là hầu hết bệnh nhân nội trú đều có khả năng gặp
phải ít nhất 1 sai sót trong suối quá trình họ nằm viện.
May
mắn là nhiều sai sót trong sử dụng thuốc không gây ra các hậu quả nghiêm trọng
đối với bệnh nhân. Các trường hợp ADE có thể ngăn ngừa được chiếm 1-2 vụ trong
100 ca nhập viện hoặc 3-6 vụ trên 1.000 ngày nằm viện. Sai sót trong sử dụng
thuốc chiếm khoảng 25-50% trên toàn bộ ADE xảy ra trong điều kiện nội trú,
không tính các bệnh nhân tại các nhà an dưỡng. Sai sót trong kê đơn và trong
dùng thuốc luôn là nguyên nhân thường gặp nhất của ADE có thể ngăn ngừa được,
chiếm tổng cộng khoảng ¾ toàn bộ trường hợp.
Thiếu
thông tin, bao gốm thiếu kiến thức về thuốc và thông tin về bệnh nhân là những
nguyên nhân hệ thống chính của sai sót trong sử dụng thuốc.
Dịch: SVD. Lê Thanh Chi - ĐH Y Dược Tp. HCM
Hiệu đính: TS.DS. Võ Thị Hà, giảng viên ĐH Y Dược Huế
Nguồn: Medical Quality Management: Theory and Practice. American College of Medical Quality
"To Err Is Human" nên dịch SAI LẦM LÀ CỐ HỮU CỦA CON NGƯỜI hay NGƯỜI TA KHÔNG MẮC SAI LẦM MỚI LẠ"
RépondreSupprimer