Người dịch: DS. Đậu Thị Tố
Nga, tốt nghiệp tại Trường Đại học Dược Hà Nội
Hiệu đính: ThS. DS. Võ Thị
Hà, ĐH Y Dược Huế
Nguồn: Alison Blenkinsopp, Paul Paxton
and John Blenkinsopp (2014). Symptoms in the Pharmacy - A Guide to management of
common illnesses 7th.
Các triệu
chứng của ợ nóng được gây ra do sự trào ngược các chất, đặc biệt là acid từ dạ
dày vào thực quản, gây kích ứng bề mặt niêm mạc nhạy cảm củathực quản. Bệnh
nhân thường mô tả các triệu chứng của chứng ợ nóng điển hình gồm: cảm giác nóng
khó chịu/đau ở dạ dày, lan ra sau xương ức. Bằng cách thăm hỏi kĩ càng, dược sĩ
có thể nhận biết các tình trạng có nguy cơ nghiêm trọng hơn.
Các
thông tin dược sĩ cần thu thập từ bệnh nhân:
Tuổi: người lớn, trẻ em
Các triệu
chứng:
- Ợ nóng
- Khó nuốt
- Đầy hơi
Các yếu tố liên quan:
Phụ nữ có thai
Các yếu tố tăng nặng
Các yếu tố làm giảm
Cân nặng
Thói
quen hút thuốc
Ăn uống
Thuốc
Các thuốc
đã thử để điều trị
Các thuốc
khác đang dùng
1. Tầm quan trọng của các
thông tin thu thập
1.1. Tuổi
Các triệu chứng của trào ngược và viêm thực
quản thường xảy ra hơn ở các bệnh nhân trên 55 tuổi. Ợ nóng thường không gặp ở
trẻ nhỏ, mặc dù các triệu chứng có thể xảy ra ở người trưởng thành trẻ, đặc biệt
ở phụ nữ có thai. Trẻ em với các triệu chứng ợ nóng do đó cần được yêu cầu đi khám
bác sĩ.
1.2. Các triệu chứng/các yếu
tố liên quan
-
Cảm giác nóng khó chịu ở phần trên dạ dày (thượng
vị) và cảm giác nóng di chuyển ra sau xương ức.
Cảm giác đau có thể chỉ ở phần dưới dạ dày hoặc thỉnh thoảng ở phía trên
bên phải dạ dày hướng tới họng, gây cảm giác vị acid ở miệng.
-
Việc quyết định một bệnh nhân có cần được điều
trị hay không khi bị chứng ợ nóng phụ thuộc vào các yếu tố làm giảm hoặc làm trầm
trọng hơn triệu chứng đó. Chứng ợ nóng
thường xảy ra khi gập người hoặc khi nằm. Xảy ra nhiều hơn ở người thừa cân và
tăng nặng hơn khi tăng cân. Có dễ xảy ra sau một bữa ăn no. Ợ hơi có thể gây ra
hoặc làm trầm trọng hơn chứng ợ nóng. Nhiều bệnh nhân có thói quen sợ nuốt để làm
sạch cổ họng. Mỗi khi nuốt, không khí bị
đẩy xuống dạ dày và làm căng dạ dày. Điều này gây cảm giác khó chịu và cảm giác
khó chịu này giảm đi khi ợ xuất hiện sau đó, nhưng phản ứng ợ lại có khuynh hướng
liên quan đến phản ứng trào ngược acid dạ dày.
a. Cơn
đau nghiêm trọng
Thỉnh
thoảng những cơn đau có thể đến bất ngờ và dữ dội, thậm chí lan ra sau lưng và
tay. Trong những trường hợp này, những triệuchứng này khó phân biệt với một cơn
đau tim, do đó nên khuyên bệnh nhân đi khám bác sĩ. Thỉnh thoảng có những bệnh nhân nhập viên với
nghi ngờ đau tim nhưng hóa ra là bị viêm
thực quản. Xem thêm thông tin ở bài Đau ngực.
b. Khó nuốt
Khó nuốt
phải được xem là một triệu chứng nghiêm trọng. Khó nuốt có thể là cảm giác khó chịu khi nuốt thức ăn
hoặc đồ uống hoặc cảm giác khi thức ăn
hoặc chất lỏng dính vào thực quản/cổ họng. Cả 2 trường hợp này cần phải đề nghị
đi khám (xem “ Khi nào cần đề nghị bệnh
nhân đi khám bác sĩ” ở phía dưới). Có thể
cảm giác khó chịu này là tình trạng thứ phát xảy ra sau trào ngược acid (bệnh
trào ngược dạ dày-thực quản)., đặc biết xảy ra khi nuốt đồ uống nóng hoặc các
chất lỏng có tính kích ứng như rượu, nước trái cây. Tiền sử có cảm giác dính thức
ăn khi nuốt hoặc thức ăn dường như không
rơi xuống dạ dày cần chỉ định được khám bác sĩ ngay lập tức. Nó có thể do tắc
nghẽn thực quản, ví dụ bởi một khối u.
c. Sự trào ngược (Regurgitation)
Trào ngược có thể kèmchứng khó nuốt. Nó xảy ra
khi thức ăn đã ăn bị dính vào thực quản và bị nôn/ợ trở lại mà không đi vào được
dạ dày. Điều này xảy ra do sự tắc nghẽn cơ học trong thực quản. Triệu chứng này có thể gây ra bởi ung thư hoặc
may mắn hơn bởi những nguyên nhân ít nghiêm trọng hơn như hẹp ống tiêu hóa. Hẹp ống tiêu hóa bị gây nên bởi tình trạng
kéo dài của trào ngược acid cùng với viêm thực quản.Tình trạng viêm liên tục thực quản tạo các sẹo làm hẹp đường thực quản.
Vấn đề này có thể được điều trị bằng làm giãn thực quản dùng nội soi sợi quang . Tuy nhiên, việc kiểm tra
và xét nghiệm y khoa chuyên sâu hơn là cần thiết để xác định nguyên nhân gây
lên sự trào ngược.
d. Phụ nữ có thai
Ước tính
có khoảng hơn một nửa số phụ nữ có thai phải chịu đựng chứng ợ nóng. Các phụ nữ
mang thai trên 30 tuổi có vẻ gặp vấn đề này nhiều hơn. Các triệu chứng xảy ra do tăng áp lực trong bụng
và giảm khả năng co thắt của cơ vòng thực quản. Người ta cho rằng hormone, đặc
biệt là progesterone, có vai trò quan trọng làm giảm trương lực cơ vòng. Chứng ợ nóng thường
bắt đầy từ giữa đến cuối thai kì, nhưng
cũng có thể xảy ra ở bất kì giai đoạn nào của thai kì. Vấn đề này có thể thỉnh
thoảng xảy ra liên quan đến stress.
1.3. Thuốc
-
Người dược sĩ nên xác định xem bệnh nhân đã
dùng bất kì loại thuốc thuốc nào để điều trị các triệu chứng này hay không. Bất
kỳ loại thuốc nào khác mà bệnh nhân đã sử dụng cũng nên được xác định; một số
thuốc có thể gây nên các triệu chưng của ợ nóng, ví dụ nhóm kháng cholinergic
như chống trầm cảm 3 vòng, chẹn kênh canxi, cafein trong hỗn hợp giảm đau hoặc
khi được sử dụng như là một chất kích thích.
-
Không đáp ứng với các thuốc kháng acid và cảm
giác đau lan ra cánh tay có thể hàm nghĩa rằng đau không phải do trào ngược
acid. Mặc dù nó vẫn có thể là một nguyên nhân, nhưng các nguyên nhân khác như bệnh tim thiếu máu cục bộ và bệnh túi mật
nên được cân nhắc.
2. Khi nào cần khuyên bệnh
nhân đi khám bác sĩ
-
Không đáp ứng với các thuốc kháng acid.
-
Cảm giác đau lan ra cánh tay.
-
Khó nuốt
-
Ợ/nôn
-
Xảy ra trong thời gian dài
-
Mức độ nặng tăng dần
-
Trẻ em
3. Tiến độ điều trị
Nếu
các triệu chứng không đáp ứng sau điều trị 1 tuần, bệnh nhân nên đi khám bác
sĩ.
4. Quản lý
Các
triệu chưng của ợ nóng đáp ứng tốt với điều trị bằng các thuốc không kê đơn, và
dược sĩ đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp các lời khuyên thiết thực về
các biện pháp để ngăn chặn sự tái phát. Các dược sĩ sẽ đánh giá chuyên môn để
quyết định có cần hay không việc sử dụng các thuốc kháng acid/alginat, kháng H2
hoặc ức chế bơm proton (PPI) (omeprazole, pantoprazole, rabeprazole) như điều
trị đầu tay. Lựa chọn điều trị cũng nên căn
cứ vào sở thích, ý kiến của bệnh nhân.
4.1. Thuốc kháng acid
Các
kháng acid có thể có hiệu quả trong kiểm soát các triệu chứng của ợ nóng và
trào ngược, và có tác dụng hơn khi kết hợp với một alginat. Dược sĩ lựa chọn
kháng acid có thể dựa theo các hướng dẫn như trong bài chứng khó tiêu . Các sản
phẩm có hàm lượng natri cao nên được tránh sử dụng cho những bệnh nhân có chế độ
ăn hạn chế natri (ví dụ bệnh nhân suy tim hoặc có các vấn đề về gan, thận).
4.2. Thuốc Alginat
Thuốc
alginat tạo thành các mảng nằm trên bề mặt dạ dày và ngăn cản sự trào ngược. Một
số alginat chứa natri bicarbonate, khi kết hợp với acid sẽ giải phóng carbon
dioxid trong dạ dày, làm nổi các mảng trên bề mặt dạ dày. Nếu bệnh nhân cần
dùng các sản phẩm có hàm lượng natri thấp thì người dược sĩ có thể khuyên dùng một
sản phẩm chứa kali carbonat để thay thế. Các sản phẩm alginat có lượng natri thấp
sẽ hữu dụng cho việc điều trị ợ nóng ở các bệnh nhân đang có chế độ ăn hạn chế
muối.
4.3. Kháng H2 (famotidine và
ranitidine)
Famotidin và ranitidine có thể được sử dụng
trong điều trị ngắn hạn chứng khó tiêu, chứng tăng acid và ợ nóng ở người lớn
và trẻ em trên 16 tuổi (xem bài Khó tiêu). Hạn chế điều trị được áp dụng để đảm
bảo bệnh nhân khôngtự ý điều trị dài hạn. Người dược sĩ và các nhân viên bán
hàng có thể hỏi bệnh nhân vẫn đang tiếp tục dùng thuốc hay chỉ dùng ngắt quãng khi
bệnh nhân mua lại thuốc. Các kháng H2 có tác dụng kéo dài (đến 8-9 tiếng) và khởi
phát tác dụng lâu hơn các kháng acid. Ở những bệnh nhân mà thức ăn là yếu tổ khởi
phát ợ nóng, kháng H2 nên được dùng trước ăn 1 tiếng. Các kháng H2 cũng có hiệu quả
phòng bệnh ợ nóng về đêm. Đau đầu, chóng mặt, tiêu chảy và phát ban da đã được ghi
nhận như là các tác dụng không mong muốn nhưng không phổ biến.
Các nhà sản xuất thông báo rằng bệnh nhân
không nên sử dụng famotidine hoặc ranitidine OTC mà không có sự kiểm tra bởi
bác sĩ nếu họ đang sử dụng các thuốc kê đơn khác.
Famotidin:
Famotidin
được cấp phép là một thuốc OTC với liều tối đa là 10mg và liều tối đa hàng ngày
là 20mg. Famotidin có dạng viên nén kết hợp với các kháng acid magie hydroxyd
và canxi carbonat. Ý tưởng của dạng kết
hợp này là giúp giảm nhanh các triệu chứng bằng các kháng acid và sau đó cung cấp
tác dụng kéo dài bởi famotidin. Thời
gian tối đa điều trị là 6 ngày.
Ranitidin
Ranitidin
được cấp phép là một thuốc OTC được sử dụng với liều 75mg, liều tối đa hàng
ngày là 300mg. Có thể được sử dụng lên tới 2 tuần.
4.4. Ức chế bơm proton (PPI)
Omeprazole,
pantoprazole và rabeprazole có thể được sử dụng để làm giảm các triệu chứng của
ợ nóng có kèm trào ngược ở người lớn. PPI
được xem như là một trong số các thuốc có hiệu quả nhất làm giảm ợ nóng. Có thế mất một ngày hoặc hơn để đạt được hiệu
quả đầy đủ. Trong thời gian này, bệnh
nhân với các triệu chứng đang tiến triển có thể sử dụng đồng thời thuốc kháng
acid. PPI hoạt động bằng cách cản trở sự tiết acid ở dạ dày. Chúng ức chế giai đoạn cuối của việc
sản sinh acid dạ dày bằng cách ức chế enzyme ATPase Kali-Hydrogen ở tế bào thành
dạ dày (còn được biết đến là bơm proton). Omeprazole và rabeprazole được cấp
phép là một thuốc OTC ở dạng viên nén 10mg, pantoprazol 20mg, liều được thể hiện
trên bảng sau:
Hàm
lượng và liều dùng của các PPI dạng OTC
|
Hàm
lượng
|
Liều
hàng ngày
|
Omeprazole
|
10
mg
|
20
mg
|
Pantoprazole
|
20
mg
|
20
mg
|
Rabeprazole
|
10
mg
|
20
mg
|
Những
bệnh nhân đang dùng PPI nên được khuyên tránh dùng kháng H2 cùng lúc. Các viên
thuốc nên được nuốt trọn với nhiều nước trước bữa ăn. Điều quan trong là các
viên thuốc không được bẻ hoặc nhai. Rượu và thức ăn không ảnh hưởng đến sự hấp
thu của PPI. Nếu không làm giảm được triệu chứng trong 2 tuần, bệnh nhân nên
đươc đề nghị đến khám bác sĩ. PPIkhông nên được sử dụng trong thời gian thai kì
và cho con bú. Buồn ngủ, gây lơ mơ là ADR đã được ghi nhận nhưng hiếm gặp. Điều
trị với PPI có thể gây kết quả âm tính giả khi test hơi thở để phát hiện vi khuẩn
Helicobacter.
5. Những lưu ý thực hành
Béo
phì:
Nếu bệnh nhân thừa cân, nên khuyên bệnh nhân
giảm cân (xem mục “ Quản lý cân nặng ăng” trong bài "Phòng các bệnh về
tim"). Có một số bằng chứng cho thấy việc giảm cân làm giảm các triệu chứng
của ợ nóng.
Thức
ăn
Các
bữa ăn nhỏ, thường xuyên thì tốt hơn so với các bữa ăn lớn, vì giảm lượng thức
ăn trong dạ dày sẽ làm giảm sự căng dạ dày, giúp ngăn cản sự trào ngược. Sự tháo
rỗng dạ dày bị chậm lại khi có một lượng lớn thức ăn trong dạ dày, có thẻ làm
trầm trọng các triệu chứng hơn. Đồ ăn giàu chất béo trì hoãn sự tháo rỗng của dạ
dày. Tốt nhất nên ăn bữa tối trước khi đi ngủ vài tiếng.
Tư
thế
Cong
người, khom/gập, thậm chí ngồi sụp xuống có thể gây ra ợ nóng và nên tránh nếu
có thể. Tốt hơn là nên ngồi xổm thay cho khom người xuống. Vì các triệu chứng thường nặng hơn khi bệnh nhân
nằm, có bằng chứng cho rằng việc kê cao đầu giường có thể làm giảm cả tiết acid
và số lần trào ngược.
Sử
dụng thêm gối thường được khuyên dùng nhưng không hiệu quả bằng việc kê cao đầu
giường khi ngủ. Nguyên nhân là việc sử dụng
thêm gối chỉ nâng cao phần trên của cơ thể và gập người ở phần chỗ thắt lưng, có
thể dẫn đến tăng áp lực ở dạ dày.
Quần
áo
Quần
áo chật, siết chặt, đặc biệt là có nịt, có thể là một yếu tố làm tăng nặng bệnh
và nên tránh.
Các yếu tố tăng nặng khác
Hút
thuốc, rượu, café, sô cô la tác động trực tiếp làm giảm trương lực cơ vòng tâm
vị, do đó góp phần tăng triệu chứng. Người dược sĩ đóng vai trò quan trọng
trong việc đưa ra lời khuyên giúp bệnh
nhân ngừng hút thuốc, cung cấp sản phẩm cai thuốc khi cần (xem chương “ Phòng bệnh
tim”). Nếu bệnh nhân biết việc ngừng thuốc lá giúp làm giảm sự khó chịu gây ra
bởi chứng ợ nóng, thì bệnh nhân sẽ có thêm động lực để cai thuốc lá.
6. Các trường hợp ợ nóng trong thực
hành
Quan điểm của bệnh nhân
Tôi
đang gặp vấn đề với chứng ợ nóng. Thực tế thì đó là một trong những lý do khiến
tôi muốn giảm cân. Tôi quen với việc bị nó trong một thời gian, nhưng sau đó
thì nó xuất hiện thường xuyên hơn. Nó từng chỉ xảy ra ban đêm, nhưng sau đó thì
xảy ra vào giữa ngày. Cảm giác nóngở vùng ngực, lan vào cổ họng. Tạo vị khủng
khiếp ở cổ họng. Vì nó xảy ra trong suốt
cả ngày nên tôi mang các thuốc antacid theo mình trong túi. Tôi chưa đi khám
bác sĩ. Tôi nhận thấy rằng khi cân nặng của mình giảm đến một nức độ nhất định (dưới ngưỡng béo phì) thì chứng ợ nóng hết. Có vẻ như tăng cân làm nó quay trở lại.
Ca 1
Bà
A.là một phụ nữ khoảng 50 tuổi, muốn xin một vài lời khuyên về vấn đề dạ dày. Trong
khi hỏi bệnh, bạn biết được bà ấy có cảm giác nóng chỉ ở phần xương ức và cổ họng,
thường kèm theo vị đắng, giống như thể thức ăn bị trào ngược lại. Cảm giác khó
chịu càng tệ hơn khi ngủ buổi đêm và khi cúi người trong khi làm vườn. Bà A. gặp
vấn đề này khoảng 1 hoặc 2 tuần và chưa điều trị gì. Bà A. không uống bất kỳ loại
thuốc nào từ bác sĩ. Nhìn sơ qua, bà A. bị
béo phì. Bạn hỏi bà A. xem các triệu chứng tồi tệ hơn ở các thời điểm đặc biệt
nào không và bà ấy cho biết những triệu chứng tồi tệ nhất xuất hiện một thời
gian ngắn sau khi đi ngủ buổi tối.
Quan điểm của dược sĩ
Người
phụ nữ này có những triệu chứng điển hình của chứng ợ nóng : đau ở vùng ức và
trào ngược. Vấn đề trầm trọng hơn vào buổi tối sau khi ngủ thường gặp trong chứng
ợ nóng. Cô A. có các triệu chứng này
trong khoảng 2 tuần và đang không sử dụng bất kỳ loại thuốc nào. Đó là lý do để
khuyên bệnh nhân sử dụng một sản phẩm kháng
acid-bao niêm mạc khoảng 1h sau ăn và trước khi đi ngủ, một kháng H2 hoặc
một PPI. Lời khuyên có thể bao gồm cả lời khuyên một cách tế nhị rằng các triệu
chứng của bà A. sẽ được cải thiện nếu bà ấy thực hiện giảm cân. Nếu nhà thuốc của
bạn cung cấp một dịch cụ giúp cân nặng, bạn có thể hỏi cô A. có hứng thú tham
gia không. Ngoài ra, lời khuyên về ăn uống và liên hệ với hội những người giảm cân
khác có thể đưa ra. Bà A. có thể cũng nên giảm bớt việc uống trà, cafe, nếu
đang hút thuốc, hãy dừng hút thuốc. Đó là danh sách các thay đổi lối sống có lợi. Có thể là một ý tưởng hay khi giải thích cho bà A. về các yếu tố giúp giảm
tình trạng bệnh và có thể thảo luận với bà ấy xem nên bắt đầu áp dụng điều gì.
Thành công sẽ đạt được và duy trì chỉ cần
bà ấy quyết định thay đổi một lần. Phụ nữ mãn kinh thường gặp chứng ợ nóng hơn,
và sự tăng cân ở giai đoạn này làm tăng nặng vấn đề hơn.
Quan điểm của bác sĩ
Lời
khuyên của dược sĩ là hợp lý. Sự trào ngược acid có vẻ là lời giải thích cho
các triệu chứng của cô ấy. Từ những
thông tin cung cấp vẫn chưa rõ liệu bà A. đang muốn tìm một loại thuốc để điều
trị bệnh hay chỉ đơn giản muốn biết nguyên nhân của triệu chứng, hay cả hai. Sẽ
luôn là hữu ích nếu tìm hiểu những mong đợi của bệnh nhân để giúp cho kết quả tư
vấn được hiệu quả hơn. Trong trường hợp này,
khối lượng thông tin cần trao đổi giữa
dược sĩ và bà A. là khá lớn vì lượng lớn thông tin cần được cung cấp, cả về việc
giải thích nguyên nhân triệu chứng (cung cấp các mô tả dễ hiểu về thực quản, dạ dày, sự trào ngược)
và lời khuyên về điều trị và lối sống. Có thể cần đề nghị một buổi thảo luận sau đó để kiểm tra
tiến độ và củng cố lời khuyên cho bệnh nhân. Nếu chứng ợ nóng không được cải
thiện, nên đề nghị bà ấy đến khám bác sĩ.
Bước
tiếp theo của bác sĩ sẽ phụ thuộc nhiều vào các thông tin này. Nếu một tiền sử
rõ ràng cho thấy chứng ợ nóng bị gây ra bởi chứng trào ngược , thì lời khuyên của
dược sĩ về tư thế, cân nặng, chế độ ăn,
hút thuốc, rượu sẽ là thích hợp. Nếu cần dùng thuốc , các kháng acid hoặc alginat
nên được thử dùng. Nếu các triệu chứng nghiêm trọng, một kháng H2 hoặc một PPI
sẽ là lựa chọn thích hợp. Trong các trường hợp các triệu chứng dai dẳng hoặc chẩn đoán không chắc chắn, việc giới thiệu
đi nội soi sẽ là cần thiết. Vi khuẩn helicobacter pylori không được cho là đóng
vai trò quan trong trong quản lý chứng ợ nóng.
Ca 2
Bạn
được yêu cầu đưa ra lời khuyên với chứng ợ nóng hỗn hợp nặng cho ông H., một
người dân địa phương hơn 50 tuổi đang
làm việc ở một nhà kho gần đó. Ông H. kể rằng ông có cảm giác ợ nóng tồi tệ và
bác sĩ đã kê 1 số thuốc cách đây khoảng 1 tuần. Bạn nhớ đã bán một đơn thuốc pha
chế một thuốc dung dịch bao niêm mạc. Chai thuốc bệnh nhân đã dùng hết và bệnh
không cải thiện. Khi hỏi ông ấy vềvị trí đau, ông H. chỉ vào ngực và siết tay lại khi mô tả cơn đau mà ông cảm giác rất nặng nề. Bạn
hỏi rằng cảm giác đau có di chuyển không, ông H. kể rằng thỉnh thoảng có lan
lên phần cổ và họng. Ông H. có hút thuốc
và chưa dùng bất kỳ thuốc nào.Khi hỏi cơn đau có trầm trọng hơn không khi gập
người và nằm xuống, ông H. bảo không nhưng ông kể rằng ông thường bị đau khi
đang làm việc, đặc biệt vào những ngày bận rộn.
Quan điểm của dược sĩ
Người
đàn ông này nên đến gặp bác sĩ ngay. Các triệu chứng mà ông ấy mô tả không phải
là những triệu chứng điển hình của chứng ợ nóng. Hơn nữa, ông ấy đang dùng sản
phẩm bao niêm mạc nhưng không có hiệu quả. Các triệu chứng của ông H. là đáng lo ngại; chứng ợ nóng có liên quan đến gắng sức khi làm việc và hướng
lan của vị trí đau lan gợi ý một nguyên nhân nghiêm trọng.
Quan điểm của bác sĩ
Miêu
tả của ông H. gợi ý chứng đau thắt ngực.
Ông ấy nên được khuyên là cần đi khám bác sĩ ngay. Dác sĩ sẽ hỏi thêm nhiều
thông tin chi tiết hơn về cơn đau, như khoảng
thời gian và đau có xuất hiện khi gắng sức hoặc không gắng sức. Nếu đau thường xuyên, kéo dài và không giảm khi
nghỉ ngơi thì nên sắp xếp nhập viện ngay lập tức vì có đau thắt ngực tăng dần hoặc không ổn định.
Nếu
không cần nhập viện nội trú khẩn cấp, bác sĩ sẽ tiến hành đánh giá đầy đủ hơn
bao gồm các kiểm tra, điện tâm đồ (ECG),
phân tích nước tiểu và máu. Và có thể phải sử dụng thuốc như aspirin, glyceryl trinitrate
(GTN), chẹn beta, một nitrat tác dụng kéo dài hoặc một chẹn kênh canxi và cần
giới thiệu gấp bệnh nhân ngoại trú đến thăm khám tại một bác sĩ tim mạch. Ông H.
nên được khuyên ngừng hút thuốc. Các đánh giá chi tiết hơn có thể được thực hiện
tại bệnh viện. Bao gồm các kiểm tra điện tim gắng sức và chụp động mạch vành. Chụp
động mạch vành cho thấy hình ảnh các mạch máu cung cấp máu cho cơ tim và nên đánh giá em có cần phẫu thuật hay
không.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire