Thông tin giành cho cộng đồng và bệnh nhân
Yếu tố nguy cơ là yếu tố ảnh hưởng tới khả
năng bị bệnh. Các loại ung thư khác nhau có các yếu tố nguy cơ khác nhau. Ví dụ,
da tiếp xúc với ánh sáng mặt trời cường độ mạnh là một yếu tố nguy cơ gây ung
thư da. Hút thuốc là yếu tố nguy cơ gây ung thư phổi, miệng, thanh quản, bàng
quang, thận và một số cơ quan khác.
Tuy nhiên yếu tố nguy cơ không cho biết tất
cả. Có một hoặc thậm chí một vài yếu tố nguy cơ không có nghĩa rằng bạn sẽ mắc
bệnh. Phần lớn những phụ nữ có một hoặc một vài yếu tố nguy cơ gây ung thư vú không
bao giờ mắc bệnh, trong khi nhiều phụ nữ mắc ung thư trong khi không có yếu tố
nguy cơ nào (ngoài việc là một phụ nữ và đang già đi). Thậm chí khi một người
phụ nữ có các nguy cơ mắc ung thư, cũng khó để biết rằng cần phải có bao nhiêu
yếu tố để mắc bệnh.
Một số yếu tố nguy cơ, như tuổi và chủng tộc,
không thể thay đổi. Các nguy cơ khác liên quan tới các yếu tố gây ung thư từ
môi trường, từ thói quen như hút thuốc, uống rượu, chế độ ăn. Một số yếu tố gây
nguy cơ cao hơn các yếu tố khác và nguy cơ bị mắc ung thư vú có thể thay đổi
theo thời gian do các yếu tố như tuổi và lối sống.
1. Yếu tố nguy cơ không thể thay đổi
Giới tính
Giới tính nữ là yếu tố nguy cơ chính gây
ung thư vú. Nam giới có thể mắc ung thư vú nhưng căn bệnh này phổ biến ở nữ hơn
100 lần so với nam. Điều này có thể do nam giới có ít hormon nữ (estrogen và
progesteron) hơn trong khi các hormon này có thể thúc đẩy sự phát triển của tế
bào ung thư vú.
Tuổi
Nguy cơ phát triển ung thư vú tăng lên theo
độ tuổi. Khoảng 1/8 ca ung thư xâm lấn xảy ra ở phụ nữ dưới 45 tuổi trong khi
2/3 số ca ở phụ nữ trên 55 tuổi.
Yếu tố di
truyền
Khoảng 5-10% ca ung thư vú được cho là di
truyền, có nghĩa là ung thư là kết quả trực tiếp từ các sai sót trong bộ gen (đột
biến) di truyền từ bố hoặc mẹ.
ADN là một chất hóa học tồn tại trong mỗi tế
bào của cơ thể, tạo nên bộ gen – mã hóa
cho các chức năng của tế bào. Chúng ta thường trông giống với cha mẹ do cha mẹ
là nguồn gen của chúng ta. Tuy vậy ADN không chỉ ảnh hưởng tới vẻ ngoài.
Một số gen quy định khi nào các tế bào sinh
trưởng, nhân đôi thành các tế bào mới và chết đi. Gen làm tăng nhanh sự nhân
đôi các tế bào được gọi là oncogen.
Các gen làm chậm quá trình nhân đôi hoặc gây chết các tế bào vào thời gian thích
hợp, được gọi là các gen ức chế khối u.
Một số biến đổi (đột biến) trong ADN gây hoạt hóa các oncogen hoặc bất hoạt các gen
ức chế khối u có thể biến tế bào tuyến vú bình thường trở thành tế bào ung
thư.
Đột
biến di truyền
Một số đột biến ADN di truyền có thể tăng đột ngột nguy cơ phát
triển ung thư và là nguyên nhân gây ra ung thư di truyền trong gia đình. Ví dụ,
gen BRCA (BRCA1 và BRCA2) là các gen ức chế khối u. Đột biến ở một trong số các
gen này có thể được di truyền từ bố mẹ. Khi một trong số các gen này bị đột biến,
không còn yếu tố ức chế sự phát triển bất thường, ung thư có nguy cơ phát triển
hơn.
Hiện nay, phụ nữ đã bắt đầu được hưởng lợi
ích từ việc hiểu được cơ sở di truyền của ung thư vú. Xét nghiệm gen có thể xác
định người có đột biến di truyền trên gen ức chế khối u BRCA1 hoặc BRCA2 (hoặc
hiếm hơn là đột biến trên gen khác như PTEN hoặc TP53). Những người này có thể
áp dụng các biện pháp để giảm thiểu nguy cơ phát triển của ung thư vú và theo
dõi sự thay đổi ở tuyến vú một cách thận trọng để phát hiện ung thư ở giai đoạn
sớm, có khả năng chữa trị cao hơn.
Đột biến trên các gen ức chế khối u như
BRCA được xem là có độ thâm nhập cao do những thay đổi này thường dẫn tới ung
thư. Mặc dù nhiều phụ nữ mang đột biến có độ thâm nhập cao mắc ung thư, hầu hết
các ca ung thư (kể cả ung thư vú) không gây ra bởi loại đột biến này. Thông thường,
các đột biến hoặc biến đổi gen có độ thâm nhập thấp là các yếu tố trong sự phát
triển của ung thư. Mỗi một đột biến trên có tác động nhỏ trên sự phát triển ung
thư của mỗi cá nhân nhưng tác động tổng thể trên quần thể có thể lớn do các đột
biến này phổ biến và mọi người thường chịu ảnh hưởng bởi nhiều đột biến cùng một
lúc hơn là chỉ một đột biến. Các gen này có thể ảnh hưởng tới nồng độ hormon,
chuyển hóa hoặc các yếu tố liên quan tới nguy cơ ung thư vú. Các gen này có thể
là nguyên nhân gây ung thư mang tính di truyền.
Đột
biến gen mắc phải
Phần lớn đột biến ADN liên quan tới ung thư
vú thường xảy ra đơn độc trên tế bào tuyến vú trong cuộc đời người phụ nữ hơn
là do di truyền. Các đột biến “mắc phải” trên oncogen và/hoặc gen ức chế khối u
có thể là kết quả từ các yếu tố khác như bức xạ hoặc các chất hóa học gây ung
thư. Tuy nhiên cho tới hiện tại, nguyên nhân gây ra phần lớn các đột biến mắc
phải này còn chưa được xác định. Phần lớn bệnh nhân ung thư vú có một vài đột
biến gen mắc phải.
Xét nghiệm đột biến điểm mắc phải có thể
giúp bác sĩ đánh giá chính xác hơn tình trạng ung thư vú. Ví dụ,
xét nghiệm có thể xác định những người mắc ung thư vú có quá nhiều oncogen
HER2, với những trường hợp này ung thư có xu hướng ác tính hơn. Đồng thời các
thuốc được phát triển với đích tác dụng đặc biệt trên loại ung thư này và đã được
chứng minh hiệu quả.
BRCA1 và BRCA2: Nguyên
nhân thường gặp nhất gây ung thư vú mang tính di truyền là đột biến di truyền
trên gen BRCA1 và BRCA2. Ở các tế bào thường, các gen này giúp ngăn ngừa ung
thư bằng cách tổng hợp các protein ngăn tế bào phát triển bất thường. Người
mang bản sao đột biến của các gen này di truyền từ bố mẹ có nguy cơ cao mắc ung
thư cao hơn trong suốt cuộc đời.
Mặc dù ở một số gia đình mang gen đột biến
BRCA1, nguy cơ ung thư vú trong suốt cuộc đời khoảng 80%, trong khi trung bình
nguy cơ này nằm trong khoảng 55 – 65%. Với gen BRCA2 đột biến, nguy cơ mắc bệnh
thấp hơn, khoảng 45%.
Ung thư vú có liên quan tới các đột biến
này thường xảy ra hơn ở phụ nữ trẻ và thường ảnh hưởng tới cả 2 bên vú hơn các
loại ung thư không liên quan tới các đột biến này. Những phụ nữ mang các đột biến
này cũng có nguy cơ cao hơn phát triển các ung thư khác, đặc biệt là ung thư buồng
trứng.
Ở Mỹ, đột biến trên gen BRCA phổ biến ở người
Do Thái có nguồn gốc Ashkenazi (Đông Âu) hơn các nhóm chủng tộc và dân tộc
khác, tuy vậy điều này có thể xảy ra ở bất kỳ ai.
Biến đổi các gen khác:
Các đột biến gen khác cũng có thể dẫn tới
ung thư vú di truyền. Các đột biến gen này hiếm hơn nhiều và thường không làm
tăng nguy cơ ung thư vú nhiều như đột biến trên gen BRCA và không phải nguyên
nhân thường gặp của ung thư vú di truyền.
·
ATM: Gen ATM thường giúp sửa chữa các
ADN bị hư hại. Thừa hưởng 2 bản sao bất thường của gen này gây chứng mất điều
hòa giãn mạch. Thừa hưởng một bản sao gen đột biến gây tăng tỷ lệ ung thư vú ở một
số gia đình.
·
TP53: Gen TP53 là khuôn mẫu để tổng hợp
protein p53 giúp ngăn cản sự tăng trưởng bất thường của tế bào. Đột biến di
truyền của gen này gây hội chứng Li-Fraumeni (được đặt tên theo 2 nhà nghiên cứu
đầu tiên mô tả hội chứng này). Bệnh nhân mắc hội chứng này có nguy cơ mắc ung
thư vú cao hơn, cũng như một số bệnh ung thư khác như ung thư bạch cầu, u não
và sarcoma (ung thư xương hoặc mô liên kết). Đây là nguyên nhân gây ung thư vú
hiếm gặp.
·
CHEK2: Hội chứng Li-Fraumeni cũng có thể
do đột biến di truyền ở gen CHEK2. Thậm chí khi đột biến không gây hội chứng
này, nó vẫn có thể tăng nguy cơ ung thư vú khoảng 2 lần.
·
PTEN: Gen PTEN giúp điều hòa sự tăng trưởng
của tế bào. Đột biến di truyền ở gen này gây hội chứng Crowden, một rối loạn hiếm
gặp. Những người mắc hội chứng này có nguy cơ mang khối u lành tính và ác tính
cao hơn, như khối u trong đường tiêu hóa, tuyến giáp, tử cung và buồng trứng.
Khiếm khuyết ở gen này cũng gây một hội chứng khác được gọi là
Bannayan-Riley-Ruvalcaba được cho là không ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú. Gần
đây các hội chứng gây ra do PTEN được gộp thành một hội chứng gọi là hội chứng
PTEN Tumor Hamartoma.
·
CDH1: Các đột biến di truyền ở gen này
gây ung thư dạ dày lan tỏa di truyền, đây là một hội chứng trong đó ung thư dạ
dày thể hiếm phát triển ở người trẻ tuổi. Phụ nữ mang các đột biến trên gen này
cũng có nguy cơ cao hơn mắc ung thư tiểu thùy tuyến vú xâm lấn.
·
STK11: Khiếm khuyết ở gen này có thể dẫn
tới hội chứng Peutz-Jeghers. Bệnh nhân mắc hội chứng này xuất hiện các đốm màu
trên môi và trong miệng, polyp ở ống nước tiểu và ống tiêu hóa, và có nguy cơ
cao mắc nhiều loại ung thư, bao gồm cả ung thư vú.
·
PALB2: Gen PALB2 tổng hợp protein liên kết
với protein được tổng hợp dựa trên gen BRCA2. Khiếm khuyết (đột biến) trên gen
này có thể dẫn tới tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Chưa rõ rằng các đột biến trên
gen PALB2 có làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng và ung thư vú ở nam giới hay
không.
Xét
nghiệm gen: xét nghiệm gen có thể được thực hiện để
tìm kiếm đột biến trên gen BRCA1 và BRCA2 (hoặc một số gen khác liên quan tới
nguy cơ mắc ung thư vú). Mặc dù xét nghiệm có thể có ích trong một số trường hợp,
tuy nhiên cần xem xét thận trọng lợi ích và tác hại.
Tiền sử gia
đình về ung thư vú
Ở những người phụ nữ mà trong gia đình có
người quan hệ huyết thống gần mắc bệnh,
nguy cơ mắc bệnh sẽ cao hơn.
Nguy cơ mắc ung thư vú tăng khoảng 2 lần
khi có quan hệ huyết thống trong phạm vi 1 thế hệ với người mắc bệnh (mẹ, chị
hoặc con gái), tăng lên khoảng 3 lần khi có quan hệ huyết thống trong phạm vi 2
thế hệ với người mắc bệnh.
Ở những phụ nữ có cha hoặc anh trai bị ung
thư vú, không xác định được chính xác nguy cơ mắc ung thư vú nhưng nguy cơ mắc
bệnh ở những người này cũng cao hơn. Nói chung, dưới 15% phụ nữ mắc ung thư vú
có thành viên trong gia đình mắc bệnh. Điều này có nghĩa là phần lớn (hơn 85%)
phụ nữ mắc ung thư vú không có tiền sử gia đình mắc bệnh.
Tiền sử ung
thư vú của bản thân
Những
phụ nữ mắc ung thư một bên vú có nguy cơ mắc ung thư mới ở bên vú còn lại
hoặc phần khác của bên vú đó cao hơn 3-4 lần. Điều này khác với tái phát ung
thư ban đầu.
Chủng tộc và
dân tộc
Nhìn chung, phụ nữ da trắng thường mắc ung
thư vú nhiều hơn phụ nữ Mỹ gốc phi, nhưng phụ nữ Mỹ gốc phi thường tử vong do
ung thư vú nhiều hơn. Tuy nhiên, ở phụ nữ dưới 45 tuổi, ung thư vú phổ biến ở
người Mỹ gốc phi hơn. Người châu Á, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, thổ dân châu Mỹ có
nguy cơ mắc ung thư vú và tử vong thấp hơn.
Mô tuyến vú
đặc
Tuyến vú được tạo thành từ mô mỡ, mô xơ và
mô tuyến. Một số người có mô tuyến vú đặc (quan sát trên phim chụp x-quang), tức
là có nhiều mô tuyến và mô xơ, ít mô mỡ hơn. Người có tuyến vú đặc trên phim chụp
x-quang có nguy cơ ung thư vú cao hơn 1,2 đến 2 lần so với người có mật độ vú
trung bình. Tuy nhiên, mô vú đặc cũng khiến phim chụp kém chính xác hơn.
Một số yếu tố có thể ảnh hưởng tới mật độ
vú, như tuổi, giai đoạn mãn kinh, một số thuốc (bao gồm liệu pháp hormon thay
thế ở giai đoạn mãn kinh), mang thai và gen.
Một số tình
trạng u vú lành tình
Người mang u tuyến vú lành tình có thể có
nguy cơ ung thư vú cao hơn. Một số ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú hơn những
tình trạng còn lại. Bác sĩ thường chia u vú lành tình thành 3 nhóm chính, phụ
thuộc vào sự ảnh hưởng của nó tới nguy cơ ung thư vú.
Thương
tổn không tăng sinh: Các loại u vú lành tính này
không đi kèm với sự tăng sinh mô tuyến vú. Các tình trạng này không ảnh hưởng tới
nguy cơ ung thư vú, nếu có thì ảnh hưởng trong phạm vi rất nhỏ. Nhóm này bao gồm:
Xơ hóa và/hoặc nang đơn thuần (thường được
gọi là bệnh xơ nang)
·
Tăng sản nhẹ
·
Bệnh tuyến không xơ cứng (adenosis)
·
Phình ống dẫn sữa
·
Bướu diệp thể (lành tính)
·
U nhú đơn độc
·
Hoại tử mô mỡ
·
Xơ hóa quanh ống dẫn sữa
·
Dị sản thể có vẩy và thể tiết rụng
đầu.
·
Vôi hóa quanh biểu mô
·
Các khối u lành tính khác
(lipoma, hamartoma, hemangioma, neurofibroma, adenomyoethelioma)
Mastitis (viêm vú) không phải một thương tổn,
tuy nhiên đây là tình trạng có thể xảy ra mà không làm tăng nguy cơ mắc ung thư
vú.
Thương
tổn có tăng sản (không thuộc thể không điển hình):
Các tình trạng này có sự tăng sinh quá mức ở ống dẫn sữa hoặc tiểu thùy ở mô
tuyến vú, làm tăng nhẹ nguy cơ mắc ung thư vú ở phụ nữ (1,5-2 lần). Nhóm này
bao gồm:
·
Tăng sản ống dẫn sữa thường
(không phải typ không điển hình)
·
U sợi tuyến vú
·
Bệnh tuyến xơ cứng
·
Một vài u nhú
(gọi là papillomatosis)
·
Sẹo hình ngôi sao
Thương
tổn tăng sản không điển hình: Trong các trường hợp
này, có sự tăng sinh của tế bào ở ống dẫn sữa hoặc tiểu thùy của mô tuyến vú,
trong đó một số tế bào không còn ở trạng thái bình thường. Các tổn thương này ảnh
hưởng lớn tới nguy cơ ung thư vú, làm tăng nguy cơ lên 3,5-5 lần. Các loại tổn
thương này bao gồm:
·
Tăng sản ống dẫn sữa không điển
hình
·
Tăng sản tiểu thùy không điển
hình
Phụ nữ có tiền sử gia đình ung thư vú, đồng
thời bị mắc chứng tăng sản hoặc tăng sản không điển hình có nguy cơ mắc ung thư
vú cao hơn nhiều.
Ung thư biểu
mô tiểu thùy tại chỗ (LCIS – Lobular carcinoma in situ)
Trong LCIS, các tế bào giống tế bào ung thư
phát triển trong tiểu thùy tuyến tiết sữa, tuy nhiên chúng không phát triển xuyên
qua thành tiểu thùy. LCIS (còn được gọi là lobular neoplasia) thường được xếp
vào nhóm ung thư vú không xâm lấn cùng với ung thư biểu mô ống dẫn sữa (DCIS –
ductal carcinoma in situ) tại chỗ, tuy nhiên khác với DCIS ở chỗ nó không trở
thành ung thư xâm lấn khi không điều trị.
Phụ nữ mắc tình trạng này có nguy cơ mắc
ung thư xâm lấn gấp 7-11 lần ở cả 2 vú. Do đó, người mắc LCIS nên thường xuyên
kiểm tra x-quang vú và thăm khám bác sĩ.
Chu kỳ kinh
nguyệt
Nguy cơ mắc ung thư vú tăng nhẹ ở những phụ
nữ có chu kỳ kinh nguyệt bắt đầu sớm (trước 12 tuổi) và/hoặc mãn kinh muộn (sau
55 tuổi). Mức độ tăng nguy cơ mắc bệnh có thể phụ thuộc vào thời gian phơi nhiễm
với hormon estrogen và progesteron.
Tiền sử xạ
trị
Nguy cơ mắc ung thư vú tăng đáng kể ở phụ nữ
có tiền sử xạ trị ở vùng ngực để điều trị các loại ung thư khác (như lymphoma)
khi còn nhỏ hoặc còn trẻ. Nguy cơ này thay đổi theo tuổi của bệnh nhân vào thời
điểm xạ trị. Nếu đồng thời sử dụng hóa trị, buồng trứng có thể dừng sản xuất
hormon trong một thời gian, điều này làm giảm nguy cơ mắc ung thư vú. Nguy cơ mắc
ung thư vú do xạ trị cao nhất khi việc điều trị được thực hiện vào tuổi thiếu
niên, khi tuyến vú đang phát triển. Xạ trị sau tuổi 40 dường như không làm tăng
nguy cơ ung thư vú.
Tiền sử phơi
nhiễm diethylstilbestrol
Từ những năm 1940 đến 1960, một số phụ nữ sử
dụng thuốc diethylstilbestrol (DES) trong thời kỳ mang thai do thuốc này được
cho là giảm nguy cơ xảy thai. Nguy cơ mắc ung thư vú ở những người này tăng nhẹ
so với bình thường. Con của những người này cũng có nguy cơ mắc ung thư vú cao
hơn.
2. Lối sống và nguy cơ ung thư vú
Có con
Nguy cơ mắc ung thư vú tăng nhẹ ở những phụ
nữ không có con hoặc có con đầu lòng sau tuổi 30. Mang thai nhiều lần và mang
thai khi còn trẻ làm giảm nguy cơ ung thư vú. Tuy vậy, ảnh hưởng của việc mang
thai đối với các loại ung thư vú khác nhau thì khác nhau. Với một số thể ung
thư vú , việc mang thai làm tăng nguy cơ ung thư.
Biện pháp ngừa
thai
Thuốc
tránh thai đường uống: Các nghiên cứu cho thấy nguy
cơ mắc ung thư vú tăng nhẹ ở những phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai đường uống
so với người chưa từng sử dụng các thuốc này. Nguy cơ này dường như trở lại
bình thường khi dừng thuốc. Với người dừng
sử dụng thuốc hơn 10 năm, nguy cơ ung thư vú không thay đổi so với bình thường.
Khi cân nhắc sử dụng thuốc tránh thai đường uống, nên thảo luận về các yếu tố
nguy cơ gây ung thư vú với cán bộ y tế.
Depot-medro
xyprogesteron acetat (DMPA; Depo-Provera) là một
progesteron dạng tiêm được sử dụng 3 tháng 1 lần để phòng tránh thai. Một vài
nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của DMPA trên nguy cơ ung thư vú. Phụ nữ trong thời
gian sử dụng DMPA có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn, tuy nhiên nguy cơ mắc ung
thư dường như không tăng lên khi dừng sử dụng thuốc trên 5 năm.
Liệu pháp bổ
sung hormon thời kì phụ nữ mãn kinh
Liệu pháp sử dụng estrogen (thường kết hợp
với progesteron) được sử dùng từ nhiều năm này để giảm triệu chứng mãn kinh và
ngăn ngừa loãng xương. Các nghiên cứu trước đây đề xuất rằng nó có thể có các lợi
ích khác cho sức khỏe, tuy nhiên các lợi ích này không được tìm thấy gần đây
qua các nghiên cứu được thiết kế tốt hơn. Liệu pháp này được gọi bằng nhiều tên
như liệu pháp hormon sau mãn kinh (post-menopausal hormone therapy), liệu pháp
hormon thay thế (hormone replacement therapy) và liệu pháp hormon mãn kinh
(menopausal hormon therapy).
Có 2 loại liệu pháp hormon chính. Với người
còn tử cung, bác sĩ thường kê đơn cả estrogen và progesteron (được gọi là liệu
pháp hormon kết hợp). Progesteron rất cần thiết do estrogen đơn độc làm tăng
nguy cơ ung thư tử cung. Với người không còn tử cung (người đã từng phẫu thuật
cắt tử cung), có thể kê estrogen đơn độc. Liệu pháp này thường được gọi là liệu
pháp thay thế estrogen hoặc liệu pháp estrogen.
Các nghiên cứu cho thấy sử dụng liệu pháp
hormon kết hợp sau khi mãn kinh làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Nó cũng tăng
nguy cơ tử vong do ung thư vú.
Sử dụng estrogen đơn độc sau mãn kinh không làm tăng nguy cơ mắc ung thư
vú.
Cho con bú
Một số nghiên cứu cho kết quả gợi ý rằng việc
cho con bú làm giảm nhẹ nguy cơ mắc ung thư vú, đặc biệt nếu cho bú liên tục từ
1,5 đến 2 năm. Tuy nhiên, điều này rất khó để nghiên cứu, đặc biệt ở các quốc
gia như Mỹ, nơi mà việc cho bú trong thời gian dài không phải là phổ biến.
Ảnh hưởng này có thể do việc cho con bú làm
giảm số lượng chu kỳ kinh nguyệt trong cuộc đời của người phụ nữ (tương tự với
việc bắt đầu chu kỳ kinh nguyệt muộn hoặc sớm).
Rượu
Sử dụng rượu có mối liên hệ rõ ràng với việc
tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Nguy cơ tăng lên tỷ lệ với lượng rượu tiêu thụ. So
sánh với người không uống rượu, người uống 1 cốc rượu tiêu chuẩn một ngày có
nguy cơ tặng rất ít. Người uống từ 2 đến 5 cốc mỗi ngày có nguy cơ cao hơn 1,5
lần so với người không uống rượu. Uống nhiều rượu cũng làm tăng nguy cơ mắc một
số loại ung thư khác.
Quá cân hoặc
béo phì
Quá cân hoặc béo phì sau mãn kinh làm tăng
nguy cơ ung thư vú. Trước mãn kinh, buồng trứng sinh ra phần lớn estrogen trong
cơ thể, và mô mỡ sinh ra một lượng nhỏ. Sau mãn kinh (khi buồn trừng dừng sản xuất
estrogen), phần lớn estrogen có nguồn gốc từ mô mỡ. Tăng mô mỡ sau khi mãn kinh
có thể làm tăng nguy cơ mắc ung thư vú do tăng nồng độ estrogen. Tương tự, những
phụ nữ quá cân thường có nồng độ insulin trong máu cao hơn. Nồng độ insulin cao
cũng có thể liên quan tới một số ung thư, bao gồm cả ung thư vú.
Tuy nhiên, quan hệ giữa cân nặng và nguy cơ
ung thư vú rất phức tạp. Ví dụ, nguy cơ ung thư tăng lên ở những phụ nữ tăng
cân ở tuổi trưởng thành nhưng có thể không tăng ở những người quá cân khi còn
nhỏ. Tương tự, quá nhiều mỡ ở vùng eo có thể ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú nhiều
hơn cùng lượng mỡ đó ở vùng hông và đùi. Các nhà nghiên cứu tin rằng các tế bào
mô mỡ ở các vùng khác nhau của cơ thể có sự khác biệt, điều này có thể giải
thích cho sự ảnh hưởng phức tạp trên.
Hoạt động thể
lực
Ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy hoạt
động thể lực dưới dạng các bài tập thể dục làm giảm nguy cơ ung thư vú. Câu hỏi
chính là cường độ cần thiết là bao nhiêu. Trong một nghiên cứu từ Cơ quan sáng
kiến về sức khỏe phụ nữ, đi bộ nhanh khoảng 1,25 đến 2,5 giờ trên tuần làm giảm
nguy cơ ung thư khoảng 18%/người. Đi bộ 10 giờ/tuần giảm nguy cơ hơn một chút nữa.
3. Các yếu tố chưa rõ
Chế độ ăn và
vitamin
Nhiều nghiên cứu đã tìm hiểu mối liên hệ giữa
chế độ ăn và nguy cơ ung thư vú, nhưng đến nay các kết quả vẫn còn nhiều mâu thuẫn.
Một số nghiên cứu cho thấy chế độ ăn có thể đóng một vai trò trong sự phát triển
ung thư, trong khi các nghiên cứu khác lại không thấy bằng chứng rằng chế độ ăn
ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú. Ví dụ, một nghiên cứu thấy rằng phụ nữ ăn nhiều
thịt đỏ hơn có nguy cơ ung thư vú cao hơn.
Các nghiên cứu cũng chú ý tới nồng độ
vitamin, và cũng thu được kết quả không thống nhất. Một số nghiên cứu hiện nay
thấy rằng ở phụ nữ có nồng độ cao một số
chất dinh dưỡng, nguy cơ ung thư vú tăng lên. Đến nay, không có nghiên cứu nào
cho thấy rằng sử dụng vitamin làm giảm nguy cơ ung thư vú. Điều này không có nghĩa
chế độ ăn lành mạnh không có lợi ích gì. Một chế độ ăn ít béo, ít các loại thịt
đỏ và thịt qua chế biến, nhiều rau và hoa quả có thể có các lợi ích khác với sức
khỏe.
Phần lớn nghiên cứu cho thấy rằng ung thư
vú ít phổ biến hơn ở các nước nơi chế độ ăn điển hình là ít các loại chất béo,
ít chất béo không bão hòa đa (polyunsaturated fat) và ít chất béo bão hòa. Tuy
nhiên nhiều nghiên cứu về phụ nữ tại Mỹ không thấy mối liên quan giữa ung thư
vú và lượng chất béo đưa vào cơ thể. Các nhà nghiên cứu vẫn không chắc chắn về
lời giải thích cho sự mâu thuẫn này. Ít nhất chế độ ăn cũng ảnh hưởng một phần
tới cân nặng của cơ thể. Tương tự, các nghiên cứu so sánh chế độ ăn và nguy cơ
ung thư ở các nước khác cũng cho kết quả phức tạp do bị ảnh hưởng bởi các yếu tố
như mức độ vận động, lượng các chất dinh dưỡng khác và gen.
Cần có thêm nghiên cứu để đánh giá ảnh hưởng
của các loại chất béo với nguy cơ ung thư vú. Nhưng chắc chắn rằng lượng calo
có liên quan và chất béo là nguồn calo chính. Chế độ ăn nhiều chất béo dẫn tới
quá cân hoặc béo phì (là yếu tố nguy cơ gây ung thư vú), đồng thời ảnh hưởng tới
sự phát triển của một số loại ung thư khác. Lượng chất béo sử dụng (một số loại)
ảnh hưởng rõ ràng tới nguy cơ bệnh tim.
Các hóa chất
trong môi trường
Nhiều nghiên cứu đã và đang được thực hiện
để đánh giá ảnh hưởng của môi trường lên nguy cơ ung thư vú.
Các hợp chất trong môi trường có tính chất
tương tự estrogen được đặc biệt quan tâm, ví dụ, các hợp chất trong một số loại
nhựa, một số mỹ phẩm và sản phẩm chăm sóc cá nhân, thuốc trừ sâu (như DDE), và
các polychlorinat biphenyl (PCB). Các chất này theo lý thuyết có thể ảnh hưởng
tới nguy cơ ung thư vú.
Vấn đề này là mối quan tâm lớn của cộng đồng,
nhưng ở thời điểm này các nghiên cứu không cho thấy mối liên hệ rõ ràng giữa
nguy cơ ung thư vú và sự phơi nhiễm với các chất này. Đáng tiếc rằng khó thực
hiện các nghiên cứu về loại ảnh hưởng này ở người. Cần có thêm nghiên cứu để xác
định ảnh hưởng tới sức khỏe của các chất này và các chất tương tự.
Hút thuốc lá
Trong một thời gian dài, các nghiên cứu
không tìm thấy mối liên hệ giữa hút thuốc và ung thư vú. Trong những năm gần
đây, nhiều nghiên cứu đã thấy rằng nghiện thuốc lá nặng trong thời gian dài có
liên quan với sự gia tăng nguy cơ ung thư vú. Một số nghiên cứu cho thấy nguy
cơ lớn nhất là ở những phụ nữ bắt đầu hút thuốc trước khi có con đầu lòng. Báo
cáo của Hội bác sĩ phẫu thuật Mỹ năm 2014 về việc hút thuốc kết luận rằng bằng
chứng “có tính gợi ý nhưng không đầy đủ” rằng hút thuốc làm tăng nguy cơ ung
thư vú.
Một trọng tâm nghiên cứu hiện nay là việc
hút thuốc thụ động có tăng nguy cơ ung thư vú hay không. Cả khói thuốc khi hút
thuốc trực tiếp hay gián tiếp đều chứa các chất hóa học gây ung thư vú ở loài gặm
nhấm ở nồng độ cao. Các chất hóa học trong khói thuốc tới mô tuyến vú và bài tiết
ra sữa.
Bằng chứng nghiên cứu về mối quan hệ nữa
hút thuốc thụ động và nguy cơ ung thư vú ở người còn gây tranh cãi, ít nhất một
phần nào đó do mối quan hệ này còn chưa rõ ràng. Có thể giải thích cho điều này là khói
thuốc lá có thể ảnh hưởng khác nhau với nguy cơ ung thư vú trên người hút thuốc
và người chỉ phơi nhiễm với khói thuốc.
Một báo cáo từ Phòng bảo vệ môi trường
California năm 2005 kết luận rằng bằng chứng cho thấy chắc chắn có mối quan hệ nhân
quả giữa hút thuốc thụ động và nguy cơ ung thư vú ở người trẻ, đặc biệt phụ nữ
trước mãn kinh. Báo cáo của Hiệp hội bác sĩ phẫu thuật năm 2004 lại kết luận rằng
không có bằng chứng chắc chắn về mối liên hệ này. Trong bất kỳ trường hợp nào,
nguy cơ này đủ để có lý do tránh việc hút thuốc thụ động.
Làm việc đêm
Một số nghiên cứu cho thấy rằng phụ nữ làm
việc về đêm (như y tá ca đêm) có thể có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn. Gần
đây, nhiều nghiên cứu hơn được tiến hành về vấn đề này. Một số nhà nghiên cứu nghĩ
rằng ảnh hưởng này có thể do sự thay đổi nồng độ melatonin, một hormon được bài
tiết thay đổi dựa theo sự phơi nhiễm của cơ thể với ánh sáng, tuy nhiên các
hormon khác cũng đang được nghiên cứu.
4. Các yếu tố còn tranh cãi hoặc chưa
được chứng minh
Chất chống đổ
mồ hồi
Tin đồn trên internet và e-mail cho rằng
các chất hóa học chống đổ mồ hôi dưới cánh tay được hấp thụ qua da, vào hệ bạch
huyết, gây độc cho quá trình phát triển của tuyến vú và cuối cùng dẫn tới ung
thư vú.
Dựa trên các bằng chứng hiện nay (bao gồm
kiến thức về cơ chế hoạt động của cơ thể), có rất ít lý do để tin rằng các chất
chống đổ mồ hồi làm tăng nguy cơ ung thư vú.
Áo ngực
Tin đồn qua internet và e-mail và ít nhất một
quyển sách cho rằng áo ngực gây ung thư vú do gây tắc nghẽn dòng bạch huyết.
Không có cơ sở khoa học hay lâm sàng cho khẳng định này, và một nghiên cứu gần
đây gồm 1500 phụ nữ cho thấy không có mối liên hệ giữa việc sử dụng áo ngực với
nguy cơ ung thư vú.
Phá thai
Một số nghiên cứu cho dữ liệu chắc chắn rằng
cả phá thai và xảy thai đều không có ảnh hưởng tới nguy cơ ung thư vú.
Cấy ghép vú
Một số nghiên cứu cho thấy rằng việc cấy
ghép vú không làm tăng nguy cơ ung thư vú, mặc dù đặt túi silicon có thể gây mô
sẹo trong vú. Việc cấy ghép có thể gây khó khăn để quan sát mô vú trong phim chụp
x-quang chuẩn của vú, nhưng khi sử dụng hình ảnh thêm (additional x-ray
pictures) , được gọi là hình ảnh thay thế cấy ghép (implant displacement view)
có thể thăm khám mô vú một cách đầy đủ.
Cấy ghép vú có thể gây lymphoma thể hiếm gọi
là lymphoma thểtế bào lớn thoái biến. Biến thể lymphoma này hiếm khi được thấy ở
mô vú quanh nơi cấy ghép. Tới nay, có rất ít ca đã biết cho thấy nguy cơ mắc thể
lymphoma này cao hơn ở những phụ nữ cấy ghép ngực.
Sinh viên Dược 5, Nguyễn Thị Minh Trang, ĐH Dược Hà Nội (dịch)
DS. Võ Thị Hà (hiệu đính)
Nguồn: Hội Ung Thư Mỹ
http://www.cancer.org/cancer/breastcancer/detailedguide/breast-cancer-risk-factors
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire