Hiện nay một số báo Việt Nam đã đăng bài báo sau về phương pháp điều trị ung thư mới do bênh viện John Hopkins khuyến cáo với tiêu đề "Ung thư: điều trị không bằng hóa trị liệu" đăng trên báo Tiền phong và Việt báo (1, 2). Nhưng thực ra đây là một thông tin sai sự thật, một tin đồn cũng lan tràn bằng tiếng Anh (2), nhưng tất nhiên không có báo chính thống nào của Anh, Pháp, Mỹ nào đăng cả. Chính bệnh viên Johns Hopkins, Mỹ đã thông báo chính thức là bệnh viện không đưa ra bất kì khuyến cáo nào kể trên (3). Thông tin này có thể rất nguy hiểm cho bệnh nhân ung thư vì sẽ không tuân thủ hóa trị liệu, xạ trị..vốn là những biện pháp chính trong điều trị hiệu quả ung thư hiện tại...
Xin các nhà báo đừng lấn sân chuyên môn của các cán bộ y tế, xin các tờ báo hay liên hệ với các cán bộ y tế trước khi đăng thông tin liên quan đến y tế, sức khỏe. Đó là đạo đức và trách nhiệm của nhà báo.
1. http://www.tienphong.vn/Suc-Khoe/ung-thu-dieu-tri-khong-can-hoa-tri-lieu-622051.tpo
2. http://vietbao.vn/Suc-khoe/Ung-thu-Dieu-tri-khong-can-hoa-tri-lieu/2131623524/250/
3. http://www.cancercompass.com/message-board/message/all,70792,0.htm
4. http://www.hopkinsmedicine.org/kimmel_cancer_center/news_events/featured/cancer_update_email_it_is_a_hoax.html
samedi 28 février 2015
vendredi 27 février 2015
TÔI ĐI LÀM DƯỢC LÂM SÀNG…
TÔI ĐI LÀM DƯỢC LÂM SÀNG…
27/2/2015
Gần 30 năm tuổi đời, 5 năm tuổi nghề…Tự
thấy mình vẫn là cô dược sĩ “non trẻ” trong khu rừng DLS này. Trong chừng đó thời
gian “vật vã” với công việc, nghĩ lại hóa ra mình cũng thu nhập được không ít
những kinh nghiệm cả vui lẫn buồn.
Như rất nhiều dược sĩ trẻ khác, với những
gì được học từ lúc còn ở giảng đường, được nghe nói về lĩnh vực DLS, được nghe
các anh chị đi trước chia sẻ, mình cũng rất hăm hở khi nghe nói sẽ được làm
công việc này. Thế nhưng thực tế không bao giờ là dễ dàng…
Sau bao ngày chăm chỉ làm “file đính
kèm” mỗi lần có anh chị dược sĩ nào đó trong khoa đi hội chẩn, mình vô cùng háo
hức khi được giao tự giải quyết một case. Đó là một bệnh nhân nữ mang thai
tháng thứ 5, được chẩn đoán là viêm phúc mạc khu trú do ruột thừa vỡ mủ. Đã có
kết quả kháng sinh đồ, vì là phụ nữ có thai nên mời thêm DLS phối hợp lựa chọn
kháng sinh. Sau một hồi mướt mồ hôi tham khảo ý kiến, kiểm tra phân loại thuốc
thai kì này nọ, mình đã quyết định sẽ đề xuất dùng ceftazidime cho bệnh nhân
này. Sau 2 ngày, tình trạng nhiễm trùng của bệnh nhân vẫn không cải thiện, khoa
phòng báo lại và trưởng khoa đã phải điều một chị dược sĩ khác có kinh nghiệm
lên điều chỉnh thuốc và tình trạng bệnh đã cải thiện. Bệnh nhân mang thai tháng
thứ 5, thêm vào đó viêm phúc mạc là một tình trạng nhiễm trùng nặng nếu không được
kiểm soát bằng kháng sinh phù hợp. Đó thực sự là một ám ảnh,một bài học mình
không bao giờ quên được, nó khiến mình
trở nên cẩn thận hơn mỗi khi được mời hội chẩn DLS về sau này. Đó cũng chính là
bài học thôi thúc khiến mình luôn tìm đọc thật kỹ những thông tin về bệnh lý và
phác đồ điều trị mỗi khi gặp một trường hợp bệnh mới gặp lần đầu. Thậm chí có
những trường hợp, mình phải xin phép về kiểm tra lại thông tin thật cụ thể, chắc
chắn rồi mới lên tiếp tục hội chẩn.
Có buồn, rồi cũng có vui, mình nhớ một lần
được mời hội chẩn để lựa chọn kháng sinh cho một bệnh nhân nhi, chẩn đoán viêm
màng não nhưng có ghi nhận dị ứng thuốc với vancomycin và ceftriaxon ở tuyến điều
trị trước đó. Với phác đồ điều trị viêm màng não ở bệnh nhân này, việc lựa chọn
kháng sinh thay thế gần như rất khó. Khi khai thác tiền sử với bệnh nhân, điều
mâu thuẫn là mặc dù đã được ngưng kháng sinh đó vài ngày nhưng hiện tại tình trạng
dị ứng vẫn tiến triển và hình thái ban dị ứng lại không phù hợp với dạng mình
thường gặp khi dị ứng với 2 kháng sinh trên, người nhà cũng nói là hai ngày này
không dùng thêm thuốc gì. Với nghi ngờ, mình quyết định hỏi kỹ lại người nhà một
lần nữa, sau một vài gợi ý, phân tích rõ tình trạng hiện tại, cuối cùng thì mẹ
bệnh nhân cũng thừa nhận là đang uống một loại thuốc được kê từ trước đó, nhưng sợ không dám nói. Loại thuốc
này có hình thái dị ứng khá phù hợp với thực tế, để xác nhận lại, mình đã tìm
cách liên lạc với bác sĩ điều trị ở tuyến trước đó và được thông báo là thời điểm
dị ứng cũng có sử dụng thuốc này và hình thái dị ứng tương tự như mình miêu tả.
Với những ghi nhận như vậy, mình mạnh dạn đề xuất với bác sĩ tiếp tục sử dụng
hai loại kháng sinh trên, và kết quả là không ghi nhận thấy dị ứng trong quá
trình điều trị.
Rồi cả trong khi giao tiếp, trao đổi với
bác sĩ trong những ngày đầu làm việc khi được mời hội chẩn cũng không phải tất
cả đều thuận lợi: có người thì bảo chỉ cần em kí vào biên bản hội chẩn cho đủ
thủ tục là được, chứ em thì biết gì về lâm sàng mà ý kiến; có người thì bảo giờ
hỏi em một câu, nếu trả lời đúng thì tiếp tục hội chẩn, không thì mời người
khác; có lúc còn bị gọi báo với trưởng khoa khi mình không khéo léo, cẩn thận
trong giao tiếp khiến bác sĩ tự ái…
Đã có những thời điểm rơi vào tình trạng
mất phương hướng về vai trò, vị trí của dược sĩ lâm sàng ở đâu trong công tác
điều trị và chăm sóc bệnh nhân khi mà ý kiến của mình bị gạt đi liên tục, khi
có những cuộc hội chẩn cảm thấy mình là “người thừa” vì chẳng đóng góp được ý
kiến gì trong đó.
May mắn vào lúc đó, mình đã được tham
gia một buổi đào tạo về DLS của Giáo sư, Dược sĩ Hoàng Thị Kim Huyền, là một
trong những cây cổ thụ của DLS Việt Nam. Chỉ là một ngày học ngắn ngủi,
từ những vấn đề liên quan đến những loại thuốc thông thường, cô đã giúp mình hiểu
rõ được vai trò vị trí của một dược sĩ DLS, hiểu được cách tiếp cận DLS như thế
nào cho đúng.
Sau 5 năm làm việc, dù con đường trở
thành một dược sĩ DLS thực thụ vẫn còn đang rất xa, nhưng cũng đã có được những
bài học bổ ích cho những ngày tháng đầu tiên này.
Theo mình, điều đầu tiên quan trọng nhất
khi làm công việc này chính là xác định rõ vai trò, vị trí của dược sĩ DLS là một tư vấn viên trong các vấn đề liên quan đến sử dụng thuốc, nghĩa là nhiệm vụ của
bạn là đề xuất ý kiến và thuyết phục, còn quyền quyết định nằm ở bác sĩ điều trị.
Điều này sẽ khiến bạn đỡ thất vọng khi không thống nhất được ý kiến với bác sĩ
điều trị hoặc từ đó cách tiếp cận sẽ mềm mỏng hơn, tránh gây cảm giác “lấn
sân”, gây cảm giác không thoải mái với bác sĩ điều trị.
Thứ 2 là cách giao tiếp, trao đổi với
bác sĩ và các nhân viên y tế khác trong quá trình làm việc. Trước hết hãy lắng
nghe xem bác sĩ mời DLS hội chẩn với mục đích gì: lựa chọn thuốc, điều chỉnh liều,
tìm thuốc thay thế khi bị dị ứng, hay chỉ đơn giản là kí vào biên bản hội chẩn…
Khi đã xác định xong, tập trung giải quyết vấn đề theo yêu cầu, ngoài ra nếu có
bất kì đề xuất nào khác, thì nên gợi ý ở dạng câu hỏi để xem mức độ quan tâm của
người khác đối với vấn đề mình đề xuất.
Thứ 3 chính là phải mạnh dạn trao đổi,
chia sẻ thông tin trong quá trình làm việc. Khi có bất kì một trường hợp nào
còn vướng mắc, hãy chia sẻ ngay với các dược sĩ khác để xem ý kiến của họ trong
trường hợp này. Khi có cơ hội hãy nói
chuyện với các bác sĩ điều trị, với các chị điều dưỡng, hay cả những lĩnh vực
khác như vi sinh, hóa sinh, huyết học…bạn sẽ thu hoạch được những thông tin bất
ngờ.
Thứ 4 chính là nguồn tài liệu tham khảo.
Có hai loại: một loại chi tiết đầy đủ nhưng cồng kềnh, không phải lúc nào cũng
mang theo bên cạnh; một loại nhỏ gọn, tiện dụng nhưng thông tin lại khá ngắn gọn.
Những tài liệu có tính tin cậy cao, uy tín, cập nhật thường đều đòi hỏi phải trả
một chi phí khá lớn. Để có được những tài liệu này với thu nhập vô cùng “hạn chế”
như mình thì cách duy nhất là mạnh dạn “xin xỏ”. Nghe chỗ nào có sách hay, có
tài liệu tốt là mình xin ngay, bất kể là ai. Một kinh nghiệm nho nhỏ nữa là để
hạn chế tối thiểu tình trạng “đứng hình” khi đi hội chẩn do gặp phải vấn đề
mình chưa biết hoặc chưa có kinh nghiệm thì hành trang của một dược sĩ DLS nhất
thiết phải có là: một điện thoại smartphone có đăng ký kết nối và cài đặt một số
phần mềm miễn phí như: medscape… và nếu có điều kiện thì xin xỏ thêm được những
quyển dạng bỏ túi, tra cứu nhanh như "The Sanford Guide to Antimicrobial
Therapy"…
Kinh nghiệm thứ 5: Ở Việt nam hầu hết các
DS đều hoạt động DLS kiêm nhiệm, nên không phải lúc nào cũng có mặt ở khoa lâm
sàng. Nếu có điều kiện, hãy xem lại những bệnh nhân mà mình đã được mời hội chẩn
vài ngày sau đó. Điều này sẽ giúp mình đánh giá được hiệu quả của tư vấn mình
đưa ra trước đó. Có nhiều khi cùng một tình trạng bệnh nhưng đáp ứng điều trị ở
người này mà lại không hiệu quả với người khác. Thêm vào đó, việc mình theo dõi
bệnh cũng khiến cho bác sĩ có cái nhìn thiện cảm hơn và hợp tác với mình tốt
hơn.
Và cuối cùng, dù trang bị đầy đủ tâm lý
và kiến thức thế nào thì cũng sẽ có lúc thất bại hoặc hiệu quả công việc không
đánh giá được một cách rõ ràng sẽ làm bạn nản lòng, vậy thì phương thuốc cuối
cùng chính là sự kiên trì và nổ lực không ngừng. Mình vẫn còn nhớ một bác sĩ đã
từng nói, hàng tháng đều chờ xem "Tập san thông tin thuốc" của tổ
DLS, không phải vì mong chờ nội dung trong đó, mà là vì tò mò muốn xem thử tại
sao hàng loạt tập san khác ra vài số rồi thôi còn cái tập san này nó tồn tại
lâu đến thế. Mình luôn tâm niệm "Hạnh phúc là con đường đi đến chứ không
phải là đích đến" nên luôn tự nhủ nổ lực hàng ngày, tiếp tục cố gắng và
tin tưởng vào một tương lai khởi sắc hơn của DLS.
DS. Nguyễn Thị Quỳnh Trang, BV Đa Khoa
Đà Nẵng
Bài sẽ được đăng trong Tập san "Nhịp cầu Dược lâm sàng" số 2 tới.
jeudi 26 février 2015
CLS chống chỉ định thuốc tác dụng lên hệ renine-angotensine ở phụ nữ mang thai
Ca lâm sàng
Bệnh nhân nữ C., 31
tuổi, bị tăng huyết áp vô căn có tính chất gia đình. BN được điều trị 4 năm nay
bằng Renitec 20 (enalapril) và Célectol (celiprolol) và huyết áp bệnh nhân ổn định.
Hôm nay, BN đến quầy thuốc với một đơn
thuốc mới của bác sĩ tim mạch: Dừng Renitec và Célectol; bổ sung Trandate( labetalol)
2 lần / ngày; Catapressan(clonidin) 1 viên vào buổi tối trong 5 ngày, sau đó uống
hai lần/ngày vào buổi sáng và buổi tối.
Tại sao lại có sự thay đổi này trong điều trị?
Bạn rất ngạc nhiên
vì sự thay đổi thuốc đột ngột của bệnh nhân và tự hỏi nguyên nhân là do BN
không dung nạp với Renitec và Célectol
hay do huyết áp bệnh nhân không được kiểm soát tốt với thuốc cũ ? Câu trả lời rất
đơn giản: trong lần khám trước với bác sĩ phụ khoa, chị C. bày tỏ mong muốn có thai.
Bác sĩ này ngay lập tức báo với bác sĩ tim mạch của chị để thay đổi thuốc điều
trị hạ huyết áp trước khi bắt đầu mang thai.
Phân tích ca:
Tăng huyết áp trong
thời kỳ mang thai gây nguy hiểm cho bà mẹ và thai nhi như: phù, protein niệu,
nguy cơ co giật hay đột quỵ cho người mẹ, chậm phát triển thai, suy thai, gây thai
chết lưu.
Theo dõi huyết áp
(và protein niệu) là cần thiết trong quá trình mang thai và mục tiêu điều trị
tăng huyết áp là 140/90 mmHg. Đối với một phụ nữ có tăng huyết áp trước đó, việc
điều trị và huyết áp mục tiêu cần phù hợp với việc mang thai.
Một số thuốc chống tăng huyết áp không nên được sử dụng ở phụ nữ mang thai:
- thuốc
lợi tiểu vì làm giảm tưới máu thai,
- thuốc
tác dụng lên hệ renine-angiotensine như nhóm thuốc ức chế men chuyển angiotensine,
nhóm kháng thụ thể của angiotensine II do có thể gây quái thai ở 3 tháng đầu
thai kỳ và gây độc cho thai nhi ở quý 2 và quý 3 thai kỳ.
Đối với chị C., các bác sĩ tim mạch đã bỏ Renitec (chống chỉ định trong thai kỳ); thay Célectol (celiprolol) bởi Trandate (labetalol) là mộtthuốc chẹn alpha và beta được dùng từ lâu ở phụ nữ có thai và bổ sung điều trị với thuốc hạ huyết áp trung ương (clonidin), thường được sử dụng cho phụ nữ có thai kết hợp với một thuốc chẹn beta.
Thái độ xử lý
-
Cần
thiết phải giải thích lại lý do thay đổi điều trị cho bệnh nhân. Có thể dừng
Celectol mà không cần giảm liều từ từ vì nó được thay thế bằng một thuốc chẹn
beta khác. Catapressan dùng liều khởi đầu một viên vào buổi tối trước khi đi ngủ,
và sau đó tăng lên 1 viên vào buổi sáng và 1 viên vào buổi tối sau 4 hoặc 5
ngày. Phải thông báo cho bệnh nhân về nguy cơ buồn ngủ (do tác dụng phụ của thuốc
hạ huyết áp trung ương), có thể ảnh hưởng không tốt khi lái xe. Không được dừng
đột ngột 2 thuốc này trong bất kỳ trường hợp nào.
- Chị
C. phải theo dõi chặt chẽ huyết áp và protein niệu trong suốt thai kỳ.
-
Việc
điều trị này phải đi kèm với những thay đổi lối sống cần thiết, đặc biệt là
trong thời kỳ mang thai: giảm lượng muối (natri), nghỉ ngơi, bỏ hẳn rượu và thuốc
lá. Cảnh báo cho bệnh nhân tránh sử dụng bất kỳ loại thuốc nào mà không có chỉ
dẫn của thầy thuốc.
-
Tư
vấn cụ thể cho bệnh nhân vào đầu thai kỳ.
Chú ý:
Thuốc lợi tiểu, thuốc
ức chế men chuyển và thuốc kháng thụ thể angiotensin II (sartan) là chống chỉ định
trong thai kỳ vì nó gây nguy cơ mắc bệnh và tử vong cho thai nhi và/hoặc trẻ sơ
sinh. Những thuốc này nên dừng ngay khi có thể nếu dự định có thai, nếu không, dừng
càng sớm càng tốt ngay khi có chẩn đoán mang thai.
Nguồn: Le Moniteur
des Pharmacies n° 2673 du 14/04/2007
Người dịch: Trần
Phương Thảo, sinh viên năm 4, ĐH Dược Hà Nội.
Người hiệu đính: DS.
Đỗ Thị Hà, BV Roanne, Pháp
lundi 23 février 2015
Ca lâm sàng sinh hóa - chẩn đoán: Mất kinh thứ phát và hội chứng Cushing
Mất
kinh thứ phát và hội chứng Cushing
Tác giả: Tiffany K. Roberts
vàCorinne R. Fantz
Người dịch: DS. Nguyễn Duy
Hưng
Người hiệu đính: DS. Nguyễn
Thị Quỳnh Trang, BV Đa Khoa Đà Nẵng
CÁC CÂU HỎI CẦN XEM XÉT
|
1. Mất
kinh thứ phát là gì? Nguyên nhân phổ biến nhất gây mất kinh thứ phát?
2. Những
tình trạng bệnh lý nào có biểu hiện giống với hội chứng đa nang buồng trứng?
3. Các
xét nghiệm đóng vai trò như thế nào trong việc chẩn đoán các nguyên nhân phổ
biến gây mất kinh thứ phát?
|
MÔ TẢ CA
Một
phụ nữ 33 tuổi đến khám do bị mất kinh và tăng cân từ 27.2-31.8 kg, mặc dù đã
ăn kiêng tập thể dục , kèm theo đó là tình trạng mụn trứng cá ngày càng nghiêm
trọng. Các triệu chứng bắt đầu xuất hiện tự phát từ 5 năm trước và đã trở nên
đáng lo ngại trong năm vừa qua. BN không có tiền sử y khoa gia đình nào đáng
chú ý. Bệnh nhân không dùng bất cứ thuốc kê đơn hay không kê đơn nào, cũng như
không dùng rượu, thuốc lá và các loại thuốc bất hợp pháp. Huyết áp của bệnh
nhân là 144/86 mmHg, nhịp tim là 88 lần/phút, thân nhiệt 37.1oC và
cao 1.8m, nặng 105.7 kg (BMI, 33.4). Kết quả của các thăm khám lâm sàng khác đều
bình thường.
Xét
nghiệm beta hCG trong nước tiểu cho kết quả âm tính và các nồng độ hormon hoạt
hóa tuyển giáp (TSH), prolactin, hormon hoàng thể hóa (LH) và hormon hoạt hóa
nang (FSH) đều trong khoảng giá trị bình thường (Bảng 1). Xét nghiệm sâu hơn
cho thấy giảm nồng độ estradiol (20 pg/mL, giá trị bình thường: 24-706 pg/mL); tăng
testosteron toàn phần
(96 ng/dL, giá trị bình thường, 10-80 ng/dL) và tăng dehydroepiandosteron-S
(DHEA-S) (594 µg/dL, giá trị bình thường <340 µg/dL) (Bảng 1). Bệnh nhân đã
được chẩn đoán hội chứng đa nang buồng trứng (PCOS) và được điều trị bằng
metformin, tuy nhiên không dung nạp; kem bôi ngoài da để chữa mụn trứng cá cũng
không có tác dụng.
Khoảng
1 năm sau, bệnh nhân đến khám với tình trạng mất kinh vẫn tiếp diễn, cô cũng
phàn nàn về việc thay đổi tâm trạng bất thường kèm theo chán nản, cũng như dễ bị
bầm tím và rậm lông. Bệnh nhân đã được chuyển đến một bác sỹ nội tiết để chẩn
đoán sâu hơn. Lần này bệnh nhân được chỉ định các xét nghiệm chuyển hóa cơ bản.
Tất cả các giá trị đều nằm trong khoảng bình thường, kể cả nồng độ TSH, LH và
FSH (Bảng 1). Nồng độ 17-hydroxyprogesteron (17-OHP) nằm trong khoảng giá trị
bình thường và estradiol nằm gần cận dưới trong khoảng giá trị bình thường (28
pg/mL). Thời gian prothombin và thromboplastin từng phần cũng nằm trong khoảng
giá trị bình thường. Nồng độ testosteron
toàn phần (132 ng/dL) và DHEA-S (812 µg/dL) vẫn tăng.
Bảng 1. Các giá trị xét
nghiệm trong lần khám thứ 1 và thứ 2
|
TSH, µIU/mL
|
Prolactin, ng/mL
|
LH, µIU/mL
|
FSH, µIU/mL
|
Estradiol, pg/mL
|
Tetosteron, ng/dL
|
DHEA-S, µg/dL
|
Khoảng
giá trị bình thường
|
0.34-5.60
|
1-24
|
1-105
|
4-22
|
24-706
|
10-80
|
<340
|
Lần khám đầu
|
4.23
|
15
|
7
|
7
|
20*
|
96*
|
594*
|
Lần khám sau
|
3.91
|
25*
|
6
|
7
|
28
|
132*
|
812*
|
THẢO
LUẬN
Tổng quan về mất kinh thứ
phát
Mất kinh được phân loại
thành mất kinh nguyên phát (chưa bao giờ hành kinh) hoặc mất kinh thứ phát
(hành kinh bị gián đoạn từ 3 tháng trở lên). Mất kinh thứ phát không phải là vấn
đề cần lo lắng, tuy nhiên nó có thể là dấu hiệu của một tình trạng bệnh lý
khác. Mất kinh thứ phát ảnh hưởng đến khoảng 5% phụ nữ ở độ tuổi sinh sản và những
người mắc thường không có cơ chế bệnh sinh rõ ràng. Do đó cần phải thăm khám một
cách có hệ thống để có thể đi đến một chẩn đoán xác định (1).
Nguyên nhân phổ biến nhất
gây mất kinh thứ phát là mang thai. Khi mà nguyên nhân có thai đã bị loại trừ,
cần đo TSH và prolactin để kiểm tra các nguyên nhân khác, như là suy giáp và
tăng prolactin. Nếu không phải là do suy giáp và tăng prolactin, mất kinh thứ
phát có thể là do tắc nghẽn đường thoát hoặc do thiểu năng sinh dục. Do kết quả
nồng độ estrogen thấp trong trường hợp này, ta đã thu hẹp nguyên nhân về còn
thiểu năng sinh dục. Thiểu năng sinh dục lại được phân chia thành tình trạng
gonadotropin bình thường, cao hoặc thấp dựa trên nồng độ của LH và FSH. Ở bệnh
nhân này, nồng độ LH và FSH đều trong giới hạn bình thường. Thiểu năng sinh dục
với gonadotropin bình thường thường liên quan tới cường androgen, biểu hiện bằng
việc tăng nồng độ testosteron trong trường hợp này. Mất kinh thứ phát trên nền
thiểu năng sinh dục kèm theo cường androgen có thể là do hội chứng đa nang buồng trứng (PCOS), tăng sản
thượng thận (CAH) không bẩm sinh hoặc hội chứng Cushing.
Hội chứng đa nang buồng trứng (PCOS) là nguyên nhân phổ biến nhất trong 3 nguyên nhân
trên, có thể gặp ở hơn 6% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản. Các biểu hiện
bao gồm mất kinh, vô sinh, rậm lông và rối loạn chuyển hóa, thường biểu hiện dưới
dạng đái tháo đường typ 2, kháng insulin hoặc các hội chứng chuyển hóa kèm theo
béo phì (2). Tuy nhiên trước khi chẩn đoán xác định là PCOS, cần phải loại trừ
nguyên nhân là CAH và hội chứng Cushing do chúng cũng có những biểu hiện tương
tự (3).
Tăng sản thượng thận (CAH)
không bẩm sinh chủ yếu là do thiếu enzyme 21-hydroxylase dẫn đến sự tích lũy androgen
(4). Đặc trưng của nó là sự nam hóa ở các bệnh nhân nữ vị thành niên và trưởng
thành, khác với CAH bẩm sinh, xảy ra chủ yếu ở trẻ nhỏ (4). Trong trường hợp
nghi ngờ PCOS, một xét nghiệm ngẫu nhiên 17-OHP là đủ để loại trừ CAH trước khi
chẩn đoán xác định là PCOS (3-4).
Tương tự như PCOS và CAH, hội
chứng Cushing có thể là nguyên nhân của mất kinh thứ phát, và sẽ gây thiểu năng
sinh dục với gonadotropin bình thường. Đặc trưng của hội chứng Cushing là tăng
nồng độ cortisol kéo dài. Nguyên nhân phổ
biến nhất gây hội chứng Cushing là do dùng thuốc, đặc biệt là dùng
glucocorticoid để chống viêm hoặc ức chế miễn dịch. Tuy nhiên hội chứng
Cushing có thể có nguyên nhân nội sinh do dư thừa cortisol. Trong trường hợp
này, cơ chế bệnh sinh có thể chia ra thành dạng phụ thuộc vào hormon vỏ thượng
thận (ACTH) hoặc dạng không phụ thuộc vào ACTH. Bệnh Cushing (Hội chứng Cushing
do dư thừa ACTH tuyến yên) là nguyên nhân của 80% hội chứng Cushing nội sinh phụ
thuộc ACTH, thường là do một khối u tiết ACTH ở tuyến yên (5). 20% ca phụ thuộc
ACTH còn lại gây ra bởi khối u lạc chỗ (5). Hội chứng Cushing không phụ thuộc
ACTH thường là do tăng sản thượng thận hoặc khối u (5).
Mặc dù tất cả các trường hợp
hội chứng Cushing đều là do phơi nhiễm trong thời gian dài với cortisol, các biểu
hiện lâm sàng lại rất đa dạng (6). Những
biểu hiện phổ biến nhất bao gồm béo phì phần thân và thay đổi trên da, như là mụn
trứng cá, vân tím và da mỏng, dẫn đến dễ bị bầm tím (7). Những biểu hiện khác bao gồm rối loạn kinh
nguyệt, rậm lông, suy giảm chuyển hóa glucose và đái tháo đường, tăng huyết áp,
yếu cơ và suy nhược, mệt mỏi và các triệu chứng trên thần kinh như chán nản và
tâm lý bất ổn định (5). Rất nhiều bệnh nhân có các triệu chứng đơn lẻ, làm
cho bức tranh tổng thể về bệnh không được rõ ràng. Hơn nữa, những triệu chứng
này rất phổ biến và có thể gây ra bởi rất nhiều nguyên nhân mà hầu hết chúng
còn phổ biến hơn cả hội chứng Cushing. Hậu quả là, bệnh nhân mang hội chứng
Cushing thường bị chẩn đoán nhầm và được điều trị sai trong nhiều năm trước khi
được chấn đoán đúng bệnh (6).
Xét nghiệm theo dõi phổ biến
nhất áp dụng khi nghi ngờ hội chứng Cushing là xét nghiệm ức chế bằng
dexamethason liều thấp và đo cortisol tự do trong nước tiểu sau 24h (7). Ngoài
ra cũng dùng cách đo cortisol trong nước bọt lấy vào ban đêm. Vào ban đêm, việc
sản xuất cortisol trong cơ thể thường ngừng lại, nhưng đấy là khi bệnh nhân
không bị hội chứng Cushing, và nồng độ cortisol trong nước bọt phản ánh nồng độ
cortisol tự do trong huyết tương (7). Tuy nhiên mặc dù việc thu thập nước bọt
khá dễ dàng, nó không phải là một xét nghiệm thường quy ở hầu hết các phòng xét
nghiệm và các yếu tố gây nhiễu ( như là giới và tuổi) chưa được mô tả rõ ràng. Hướng
dẫn chẩn đoán hội chứng Cushing của Hiệp hội Nội tiết khuyến cáo dùng 1 trong 3
test trên để theo dõi bệnh nhân (7). Nếu kết quả lần đầu tiên là dương tính, cần
tiến hành thêm 1 test khác nữa để khẳng định chắc chắn.
Trong trường hợp này, cortisol
tự do trong nước tiểu 24h tăng (157.1 µg/dL, giá trị bình thường, <
45µg/dL). Test ức chế bằng dexamethason liều thấp đã được tiến hành. Nồng độ
cortisol cơ bản là 25µg/dL và giảm xuống còn 8µg/dL sau khi dùng dexamethason;
tuy nhiên liều cortisol được coi là dương tính được khuyến cáo là <5µg/dL.
Vì thế, kết quả được coi là dương tính và chẩn đoán hội chứng Cushing được xác
lập.
Sau khi có chẩn đoán ban đầu,
hội chứng Cushing cần phân loại thành dạng phụ thuộc ACTH và dạng không phụ thuộc
ACTH. Cuối cùng, để phân biệt giữa nguồn sinh ACTH thuộc tuyến yên và ngoài tuyến
yên, test kích thích hormon giải phóng corticotropin (CRH) được sử dụng (8).
Test CRH được tiến hành bằng cách lấy mẫu ở xoang đá vành dưới (9). Sự tăng quá
mức nồng độ ACTH sau khi dùng CRH là dấu hiệu của bệnh Cushing.
Phân tích ca
Nồng độ ACTH tăng (92 pg/mL,
khoảng giá trị bình thường, 5-27 pg/mL) đã khẳng định chẩn đoán là hội chứng
Cushing phụ thuộc ACTH. Thêm vào đó, test kích thích CRH sau đó đã cho thấy
tăng quá mức nồng độ của cả cortisol và ACTH ở máu ngoại vi (Hình 1), khẳng định
bệnh nhân mắc bệnh Cushing. Ở bệnh Cushing, việc ACTH tăng ít nhất 50% và
cortisol tăng ít nhất 20% trong vòng 30 phút sau khi dùng CRH so với mức ban đầu
được coi là dấu hiệu với độ nhạy 91% và độ đặc hiệu 95% của bệnh Cushing tuyến
yên (10). Ở bệnh Cushing thượng thận, nồng độ ACTH thấp và nồng độ cortisol cao
ngay từ ban đầu và không bị ảnh hưởng khi tiêm CRH. Ở bệnh Cushing lạc chỗ, nồng
độ ACTH và cortisol cao ngay từ ban đầu thường không thay đổi khi dùng CRH. Bệnh
nhân đã được chụp cộng hưởng từ và phát hiện một khối u tuyến yên dài 0,4 cm và
sau đó khối u đã bị loại bỏ bằng phẫu thuật nội soi qua xương bướm. Sau đó, nồng
độ ACTH và cortisol đều trở về giá trị bình thường. Bệnh Cushing của bệnh nhân
đang thuyên giảm dần và kinh nguyệt đang quay lại, đồng thời, tình trạng thiểu
năng sinh dục do tăng adrogen đang cải thiện dần theo thời gian.
Hình
1. Kết quả của test kích thích CRH
Thời gian (phút)
Ở bệnh nhân ,
nồng độ ACTH tăng 2 lần và nồng độ cortisol tăng 50% sau khi kích thích bằng
CRH. Những dấu hiệu này phù hợp với bệnh Cushing.
Chú giải : Đường
nối các điểm tròn: nồng độ cortisol; đường nối các hình vuông đặc: nồng độ
ACTH; đường thẳng chấm: khoảng nồng độ cortisol bình thường; đường thẳng gạch:
khoảng nồng độ ACTH bình thường.
|
Kết luận
Mất kinh thứ phát có thể là
dấu hiệu của các bệnh lý tiềm ẩn nghiêm trọng hơn. Do đó, cần phải chẩn đoán
đúng nguyên nhân gây bệnh để có thể điều trị cho bệnh nhân một cách hiệu quả.
Việc điều trị bệnh Cushing ở bệnh nhân này đã bị trì hoãn do chẩn đoán nhầm, điều
này thường xảy ra do bệnh này khá hiếm gặp. Điều quan trọng là bác sỹ cần phải
hiểu rõ những tình trạng bệnh lý có biểu hiện giống nhau và các test có liên
quan để phân biệt chúng (1,3,7). Chẩn đoán xác định phải dựa trên các xét nghiệm
đúng, và ca này đã minh họa rằng cách tiếp cận rõ ràng, theo đúng tuần tự với
các xét nghiệm lâm sàng có thể giúp ta đi đến chẩn đoán đúng nhanh và hiệu quả.
CÁC ĐIỂM CẦN NHỚ
|
·
Các nguyên
nhân phổ biến nhất gây mất kinh thứ phát bao gồm mang thai, suy giáp và tăng
prolactin
·
Các xét nghiệm
chẩn đoán của mất kinh thứ phát nên được tiến hành theo trình tự thích hợp để
làm rõ nguyên nhân và nên bao gồm beta hCG, TSH, prolactin, FSH và LH.
·
Trước khi chẩn
đoán xác định PCOS, cần phải loại trừ các nguyên nhân khác gây mất kinh thứ
phát trên nền thiểu năng sinh dục tăng androgen như là CAH và hội chứng
Cushing
·
Test ức chế
bằng dexamethason liều thấp, đo cortisol tự do trong nước tiểu sau 24h và đo
nồng độ cortisol trong nước bọt vào ban đêm và các test theo dõi hội chứng
Cushing được khuyến cáo bởi Hiệp hội Nội tiết
|
THAM
KHẢO
1. Roberts-Wilson TK,
Spencer JB, Fantz CR. Using an algorithmic approach tosecondary amenorrhea:
avoiding diagnostic error. Clin Chim Acta 2013;423:56–61.
2. Trivax B, Azziz R.
Diagnosis of polycystic ovary syndrome. Clin ObstetGynecol 2007;50:168–77.
3. Azziz R, Carmina E,
Dewailly D, Diamanti-Kandarakis E, Escobar-MorrealeHF, Futterweit W, et al. The
androgen excess and PCOS society criteria forthe polycystic ovary syndrome: The
complete task force report. Fertil Steril2009;91:456–88.
4. Huynh T, McGown I, Cowley
D, Nyunt O, Leong GM, Harris M, CotterillAM. The clinical and biochemical
spectrum of congenital adrenal hyperplasia secondary to 21-hydroxylase
deficiency. Clin Biochem Rev 2009;30:75– 86.
5. Boscaro M, Arnaldi G.
Approach to the patient with possible Cushing’ssyndrome. J Clin Endocrinol
Metab 2009;94:3121–31.
6. Aron DC. Cushing’s
syndrome: Why is diagnosis so difficult? Rev EndocrMetab Disord 2010;11:105–16.
7. Nieman L, Biller B,
Findling J, Newell-Price J, Savage M, Stewart P, MontoriVM. The diagnosis of
Cushing’s syndrome: an Endocrine Society clinicalpractice guideline. J Clin
Endocrinol Metab 2008;93:1526–40.
8. Kola B, Grossman AB.
Dynamic testing in Cushing’s syndrome. Pituitary2008;11:155–62.
9. Deipolyi AR, Hirsch JA,
Oklu R. Bilateral inferior petrosal sinus sampling.J Neurointerv Surg
2012;4:215–8.
10. Chrousos GP, Schulte HM,
Oldfield EH, Gold PW, Cutler GB Jr, Loriaux DL.The corticotropin-releasing
factor stimulation test. An aid in the evaluation of patients with Cushing’s
syndrome. N Engl J Med 1984;310:622– 6.
Inscription à :
Articles (Atom)