Hiệu đính: DS. Bùi Thanh Hà, BV VINMEC, Hà Nội
Nguồn: Alison
Blenkinsopp, Paul Paxton and John Blenkinsopp (2014). Symptoms in the Pharmacy - A Guide to management of
common illnesses 7th.
Ho là một phản ứng bảo vệ cơ thể xuất hiện khi đường thở bị kích thích hay tắc nghẽn. Mục đích của ho là làm sạch đường dẫn khí để hoạt động hô hấp có thể trở lại bình thường. Biểu hiện ho phần lớn được gây ra bởi sự nhiễm khuẩn đường hô hấp trên do virus. Chúng thường xuất hiện kèm với các triệu chứng khác của cảm. Bằng chứng ủng hộ việc sử dụng thuốc ức chế ho hoặc long đờm không mạnh, tuy nhiên nhiều bệnh nhân vẫn cảm thấy thuốc có hiệu quả.
Điều cần biết
|
Tuổi (xấp xỉ)
Trẻ
sơ sinh, trẻ nhỏ, người lớn
Thời gian dùng thuốc
Bản chất của ho
Ho
khan hay có đờm
Các triệu chứng kèm theo
Cảm, viêm họng, sốt
Ho ra đờm
Đau ngực
Khó thở
Thở khò khè
Tiền sử
COPD (viêm phế quản mạn tính, tràn khí màng
phổi, bệnh tắc nghẽn đường thông khí mạn tính)
Hen phế quản
Đái tháo đường
Bệnh tim
Trào ngược dạ dày- thực quản
Thói quen hút thuốc
Thuốc dùng hiện nay
|
1. NHỮNG CÂU HỎI VÀ CÂU TRẢ LỜI QUAN
TRỌNG
Tuổi
Việc
xác định bệnh nhân là ai- trẻ nhỏ hay người lớn – sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn
cách điều trị và có cần thiết phải đi
khám bác sỹ không.
Thời gian điều trị
Phần
lớn, các trường hợp ho sẽ tự hết và trở nên tốt hơn trong vòng vài ngày cho dù
có điều trị hay không. Nói chung, 1 đợt ho kéo dài hơn 2 tuần không cải thiện
thì nên gặp bác sĩ đề thăm dò thêm.
Các
bệnh nhân thường quan tâm đợt ho sẽ kéo dài đến bao giờ, với họ, đó sẽ 1 khoảng
thời gian dài. Họ có thể lo lắng rằng ho
không khỏi nghĩa là họ đã mắc một căn bệnh nặng.
Bản chất của ho
Ho khan, ho kích ứng
Trong trường hợp
ho khan, không có đờm tiết ra. Những cơn ho như thế này thường do nhiễm virus
và tự khỏi.
Ho có đờm (chesty or loose)
Đờm thường được
tiết ra. Chính sự bài tiết đờm quá mức dẫn đến ho. Tình trạng này có thể do kích
thích đường thở bởi nhiễm khuẩn, dị ứng, vv…, hay khi hệ vi nhung mao không hoạt
động bình thường (ví dụ ở những người hút thuốc). Đờm không màu (trong hoặc hơi
trắng) là đờm không bị nhiễm khuẩn và được xem như là trường hợp chất nhày bình
thường.
Đôi khi đờm có màu là biểu hiện cho sự nhiễm trùng như
bệnh viêm phế quản, viêm phổi và cần đến gặp bác sĩ .Trong những trường hợp
này, đờm được mô tả là đặc quánh, có màu xanh, màu vàng hay màu gỉ sắt,và tình trạng bệnh nhân xấu hơn có thể có sốt, run rẩy và toát mồ hôi. Đôi khi
có máu xuất hiện trong đờm (bệnh ho ra máu), màu có thể từ hồng đến đỏ đậm. Ho
ra máu có thể chỉ đơn giản do vỡ mao mạch
sau 1 cơn ho dữ dội của 1 đợt nhiễm trùng cấp, nhưng có thể là dấu hiệu cảnh
báo những bệnh nghiệm trọng hơn. Khi bệnh
nhân ho ra máu, cần phải đi khám ngay.
Thông thường, không chỉ định kháng sinh cho viêm phế
quản cấp ở bệnh nhân có tiền sử khỏe mạnh trước đó. Phần lớn các trường hợp
viêm phế quản cấp được gây ra bởi virus, vì vậy kháng sinh không có tác dụng.
Hai nghiên cứu tổng quan hệ thống đã nhận
thấy sử dụng kháng sinh cho viêm phế quản
cấp chỉ đem lại lợi ích rất nhỏ, chỉ có
thể làm giảm thời gian điều trị khoảng nửa ngày. Một số người mắc bệnh hen có
xu hướng tiến triển thành viêm phế quản co thắt khi nhiễm virus đường hô hấp. Ở những bệnh nhân này, có thể điều trị bằng
các thuốc dạng hít hoặc khí dung thường dùng trong điều trị hen.
Nếu một người bị viêm phế quản lặp lại qua nhiều năm,
họ có thể mắc COPD (biểu hiện: ho mạn tính, có đờm, khó thở, khò khè, với yếu tố
nguy cơ như hút thuốc, khi những nguyên nhân khác của ho mạn tính đã được loại
bỏ). Vì vậy việc hỏi bệnh cẩn thận là quan trọng để xác định điều này.
Có 1 sự thống nhất chung rằng nên cân nhắc kê kháng sinh cho người cao tuổi,
bệnh nhân có giảm khả năng đề kháng với nhiễm khuẩn, có sẵn bệnh lý mắc kèm (như
đái tháo đường hay suy tim) hoặc khi
tình trạng lâm sàng xấu đi.
Trường hợp suy tim và hẹp van 2 lá, đờm đôi khi có màu
hồng và có bọt hoặc có màu đỏ tươi. Triệu chứng xác định là khó thở (đặc biệt
là khi ngủ vào ban đêm) và sưng mắt cá chân.
Bệnh lao
Cho dù đã từng được coi là căn bệnh của quá khứ, số lượng
ca mắc bệnh lao ngày càng tăng lên ở Anh và ngày càng có nhiều lo ngại về các
chủng lao kháng thuốc. Ho mạn tính và ho ra máu kèm sốt, ra mồ hôi trộm là những
triệu chứng cơ bản. Bệnh lao là 1 bệnh phổ biến ở người nghèo và đặc biệt ở những
khu vực kém phát triển. Ở Anh, phần lớn ca lao phổi gặp ở nhóm các dân tộc thiểu
số, đặc biệt là người gốc Ấn và người gốc Phi. nhiễm virus HIV làm suy giảm miễn
dịch ở người là 1 yếu tố nguy cơ đáng kể cho sự phát triển của bệnh lao phổi.
Bệnh viêm thanh-khí quản cấp
Bệnh thường xảy ra ở những trẻ sơ sinh. Tiếng ho khô
rát. Bệnh phát triển khoảng 1 ngày sau khi xuất hiện của các triệu chứng giả cảm.Triệu
chứng kèm theo thường có khó thở và tiếng thở khò khè ở thì hít vào. Với những
trường này thì đến gặp bác sĩ chuyên khoa là việc cần thiết.
Ho gà (ho lâu ngày)
Ho gà bắt đầu với triệu chứng sổ mũi. Dấu hiệu đặc
trưng của ho gà là không biểu hiện trong giai đoạn đầu của sự nhiễm khuẩn. Tiếng
ho gà xuất hiện khi bệnh nhân thở sau cơn ho bộc phát. Các cơn ho gây khó khăn
trong việc thở và tiếng ho gà biểu hiện cho hiện tượng thở gắng sức. Với những
trường hợp này thì đến gặp bác sĩ chuyên khoa là cần thiết.
Các triệu chứng kèm theo
Cảm, viêm họng và sổ mũi có thể kèm theo ho. Thường
thì có sốt và có biểu hiện đau mỏi cơ. Triệu chứng này xuất hiện khi nhiễm
virus và sẽ tự khỏi. Đau ngực, khó thở, hoặc thở khò khè là những biểu hiện cho
thấy cần phải đến gặp bác sĩ chuyên khoa. (xem trang 62).
Chảy nước mũi
Chảy nước mũi là 1 nguyên nhân phổ biến của ho.và có
thể là do viêm xoang. (xem trang 21)
Tiền sử
Một số loại thuốc ho không nên sử dụng ở những bệnh
nhân đái tháo đường, và những người có tiền sử bệnh tim hay tăng huyết áp. (xem
trang 40)
Viêm phế quản mạn tính
Việc hỏi bệnh có thể tìm ra tiền sử bệnh viêm phế quản mạn tính đã được
bác sỹ chỉ định kháng sinh. Trong tình huống này, có thể điều trị thêm với thuốc ho thích hợp
Bệnh hen suyễn
Ho lặp lại thường kì vào ban đêm là dấu hiệu cho biết
bệnh hen, đặc biệt là ở trẻ em, và nên được đưa đến bác sĩ. Bệnh hen đôi khi có
thể biểu hiện giống như ho mạn tính không kèm tiếng thở khò khè. Nên hỏi bệnh
nhân tiền sử gia đình về bệnh chàm, dị ứng
theo mùa và bệnh hen. Những bệnh nhân có tiền sử gia đình như vậy có xu hướng
ho kéo dài hơn sau khi mắc nhiềm khuẩn đường hô hấp trên.
Bệnh tim mạch
Ho có thể là 1 triệu chứng của bệnh tim (xem trang 65).
Nếu có tiền sử về bệnh tim, đặc biệt với 1 đợt ho dai dẳng thì nên tìm đến bác
sĩ chuyên khoa.
Trào ngược dạ dày- thực quản
Trào ngược dạ dày thực quản có thể là nguyên nhân gây
ra ho. Đôi khi sự trào ngược không có triệu chứng nào ngoài ho ra. Một số bệnh
nhân cảm nhận được acid tràn vào họng họ vào ban đêm khi ngủ.
Thói quen hút thuốc
Hút thuốc sẽ làm tăng mức độ nặng của cơn ho và có thể
gây ra ho do kích ứng phổi. 1/3 số người hút thuốc thời gian dài sẽ tiến triển
thành ho mạn tính. Nếu cơn ho tái phát và dai dẳng, người dược sĩ nên đưa ra lời
khuyên giáo dục sức khỏe về lợi ích của việc dừng hút thuốc, đề nghị liệu pháp
thay thế nicotin nếu thích hợp.
Tuy nhiên, trong quá trình bỏ thuốc, cơn ho ban đầu có
thể trở nên tồi tệ hơn Do hệ thống vi
nhung mao hoạt dộng mạnh trở lại. Điều này cần được tư vấn trước cho bệnh nhân.
Những người hút thuốc có thể cho rằng ho là vô hại. Vì vậy, cần phải nhấn mạnh
với bệnh nhân bất kì sự thay đổi nào về tính chất cơn ho có thể là do một bệnh
lý nghiêm trọng (xem “ Cai thuốc” trong chương “ Phòng chống bệnh tim”)
Thuốc dùng hiện tại
Luôn luôn cần chú ý tới các thuốc bệnh nhân hiện tại
đang sử dụng, bao gồm cả thuốc kê đơn, thuốc không kê đơn, được vay mượn
từ bạn bè hay được tìm thấy trong tủ thuốc gia đình. Việc đánh giá tương tác
thuốc của các thuốc này với thuốc ho là rất quan trọng.
Cũng cần phải biết thuốc ho nào bệnh nhân đã từng sử dụng
trước đây. Người dược sĩ có thể phát hiện
ra bệnh nhân đã sử dụng thuốc không thích hợp trước đó ví dụ, thuốc ức chế ho
dùng khi ho có đờm. Nếu 1 hay nhiều thuốc đã được dùng trong 1 khoảng thời gian
dài mà không hiệu quả thì nên đến gặp bác sĩ chuyên khoa.
Thuốc ức chế men chuyển angiotensin
Ho mạn tính có thể xảy ra ở nhiều bệnh nhân, đặc biệt
là phụ nữ, sử dụng thuốc ức chế men chuyển angiotensin (ACEI) như enalapril,
captopril, lisinopril và ramipril. Các bệnh nhân có thể tiến triển ho trong vài
ngày đầu điều trị hoặc sau khoảng thời gian vài tuần hay thậm chí vài tháng. Hiện chưa rõ tỷ lệ chính xác bệnh nhân gặp phải
phản ứng này, ước tính dao động từ 2 %- 10 % số bệnh nhân sử dụng ACEI. Thuốc
này ức chế sự giáng hóa bradykinin và
các kinin khác ở phổi, là những chất có thể gây ra ho. Cơn ho điển hình do ACEI là ho khan và ho dai dẳng, ho kích ứng..Tất
cả các ACEI đều có thể gây ho, do đó, việc đổi giữa các thuốc cùng nhóm ACEI
thường không có hiệu quả. Cơn ho có thể chấm dứt hoặc dai dẳng ; ở 1 số bệnh
nhân, Ho làm họ cảm thấy quá khó chịu và lo âu tới mức phải ngừng thuốc. Bất kỳ
bệnh nhân nào có nghi ngờ ho do thuốc cần
đi khám bác. Thuốc đối vận trên receptor
angiotensin-2, có tác dụng tương tự các thuốc ACEI và không gây tích lũy
bradykinin, có thể được sử dụng thay thế nếu không hết ho.
2. KHI NÀO DƯỢC SĨ CẦN TƯ VẤN BỆNH NHÂN ĐI KHÁM BÁC SĨ
Khi nào cần đi khám bác sỹ
|
Ho kéo dài 2 tuần hoặc nhiều hơn và không cải thiện
Có đờm (vàng, xanh, màu rỉ sắt, hoặc có vết máu)
Đau ngực
Khó thở
Khò khè
Ho gà hoặc viêm tắc thanh quản
Ho lặp lại về đêm
Nghi ngờ do phản ứng bất lợi của thuốc.
Thất bại trong dùng thuốc
|
Sau
1 loạt câu hỏi, Dược sĩ nên đưa ra quyết định liệu việc điều trị hay giới thiệu
đến bác sĩ chuyên khoa là giải pháp tốt nhất.
3. KHOẢNG THỜI GIAN ĐIỀU TRỊ
Dựa
trên thời gian bệnh nhân bắt đầu ho và khi dược sỹ đã đưa ra cách điều trị phù
hợp,bệnh nhân nên đến gặp bác sĩ sau 2 tuần bị ho nếu tình trạng không cải thiện
4. ĐIỀU TRỊ
Các
dược sĩ nhận thấy sự bàn cãi về hiệu quả lâm sàng của các liệu pháp điều trị ho
không kê đơn. Một nghiên cứu tổng quan hệ thống đã kết luận rằng “Hiện không có
bằng chứng đủ mạnh để ủng hộ hoặc phản đối hiệu quả của các thuốc không kê đơn
(OTC) trong điều trị ho cấp tính”. Tuy nhiên, bệnh nhân vẫn tìm đến dược sĩ bởi
họ muốn giảm bớt triệu chứng và, trong khi hiệu quả lâm sàng của các thuốc trị
ho đang được bàn cãi, “hiệu ứng giả dược”
vẫn có thể có ích cho bệnh nhân.
Sự
lựa chọn phương pháp điều trị phụ thuộc vào kiểu ho. Các chất ức chế ho (như
pholcodine) được dùng để điều trị ho khan, trong khi đó các thuốc kích thích tiết
đờm như guaifenesin được dùng trong điều trị ho có đờm. Dược sĩ nên kiểm tra lại
liều lượng thuốc có trong chế bởi 1 số sản phẩm ho hiện nay chứa thành phần với
liều lượng thấp hơn nhiều liều điều trị. Thuốc giảm viêm như Simple lintus làm dịu
họng được sử dụng phổ biến ở trẻ em và phụ nữ mang thai vì chúng không chứa hoạt
chất.
BNF
đưa ra các chỉ dẫn như sau:
- Thuốc long đờm được sử dụng với mục đích tăng cường tống dịch phế quản ra ngoài,
nhưng không có bằng chứng nào cho thấy bất cứ thuốc nào thực sự hỗ trợ cho sự
khạc đờm.
- Thuốc ức chế : Khi không xác định được nguyên nhân ho (nguyên nhân bệnh lý gây
ho) các thuốc ức chế ho có thể hữu ích, đặc biệt là khi mất ngủ vì ho
- Thuốc giảm viêm : Các thuốc như Simple Lintus có nhiều lơi ích vì an toàn và giá
rẻ. Simple Lintus đặc biệt tốt khi dùng cho trẻ
em.
- Các chế phẩm nhiều thành phần được bán trong cộng đồng để điều trị ho
và cảm nhưng không nên dùng cho trẻ dưới 6 tuổi. Cơ sở của việc kết hợp các
thành phần trong những thuốc này cũng không rõ ràng.. Cần chú ý để sử dụng thuốc
với liều lượng hợp lý và không kết hợp nhiều chế phẩm với nhau.
- Ho có đờm không nên điều trị bằng thuốc ức chế ho bởi sự
tích tụ và ứ đọng chất nhầy trong phổi có thể tăng nguy cơ nhiễm khuẩn, đặc biệt
ở bệnh nhân viêm phế quản mạn tính.
- Không sử dụng thuốc kích thích tiết đờm (tăng cường
cơn ho)và thuốc ức chế ho (làm giảm cơn ho) cùng với nhau vì chúng có tác dụng
đối lập nhau. Do đó, các sản phẩm thuốc có chứa cả 2 chất thì không có hiệu quả
điều trị. UK CHM đã đưa ra khuyến cáo vào năm 2009 về sự an toàn của việc sử dụng
thuốc ho và cảm cho trẻ em dưới 12 tuổi (xem trang 23).
4.1. Thuốc ức chế cơn ho
Các thử nghiệm được kiểm soát không xác nhận bất cứ hiệu
quả đáng kể nào của các thuốc ức chế ho so với giả dược trong việc làm giảm triệu
chứng.
Codein/ pholcodine
Pholcodine có 1 vài ưu điểm hơn codein vì codein có 1
vài tác dụng phụ (thậm chí tại liều không kê đơn, codein có thể gây táo bón và
tại liều cao ức chế hô hấp) và pholcodine ít có khả năng bị lạm dụng. Cả
pholcodine và codein có thể gây tình trạng buồn ngủ, mặc dù đây không phải là vấn
đề lớn trong thực hành. Tuy nhiên, vẫn cần đưa ra lời 1 lời cảnh báo hợp lí.
Codein là 1 thuốc có thể bị lạm dụng và nhiều dược sĩ thường không khuyến cáo
thuốc này cho bệnh nhân. Việc kinh doanh thuốc này phải được hạn chế bởi vì kiến
thức hay khả năng về sự lạm dụng này. MHRA/CHM khuyến cáo rằng những thuốc ho
chứa codein không nên sử dụng cho trẻ em dưới 18 tuổi. Pholcodine có thể dùng
được cho trẻ trên 6 tuổi với liều 5mg (5 mg pholcodine có chứa trong 5 ml
Pholcodine Linctus BP). Người lớn có thể tăng liều dùng tới 15mg 3 -4 lần /ngày. Thuốc có thời gian bán thải
dài và có thể dùng 2 lần/ ngày.
Dextromethophan
Dextromethophan hiệu lực thấp hơn pholcodine và
codein.Thuốc này không có tác dụng an thần và có 1 vài tác dụng phụ.Đôi khi,
tác dụng gây ngủ được nói đến nhưng cũng giống như Pholcodine, đây không phải
là 1 vấn đề trong thực hành điều trị. Dextromethorphan được dùng cho trẻ em từ
6 tuổi trở lên. Dextromethophan nhìn chung ít có nguy cơ bị lạm dụng thuốc. Tuy
nhiên, cũng đã từng có vài báo cáo về chứng gây nghiện do lạm dụng thuốc và tiêu
thụ 1 số lượng thuốc rất lớn, và dược sĩ nên chú ý tới khả năng này nếu bệnh
nhân thường xuyên mua Dextromethorphan.
Thuốc giảm viêm
glycerin, chanh, và mật ong hay siro trị ho là những
bài thuốc phổ biến và hữu ích cho tác dụng làm dịu họng. Chúng không chứa hoạt chất và được
xem như an toàn với trẻ em và phụ nữ có thai. Các thuốc này chính là sự lựa chọn
điều trị cho trẻ em dưới 6 tuổi.
Thuốc tiêu đờm
Có 2 cơ chế tiêu đờm.Cơ chế trực tiếp bằng cách kích
thích bài tiết dịch phế quản, dẫn đến làm loãng đờm,làm đờm được ho ra ngoài dễ
dàng hơn. Một cơ chế khác là hoạt động gián tiếp thông qua kích thích đường
tiêu hóa, từ đó tác động gián tiếp trên
đường hô hấp, kết quả là tăng bài tiết chất nhầy. Cơ chế gián tiếp này có ít bằng
chứng ủng hộ hơn cơ chế trực tiếp
Guaifenesin (Guaiphenesin)
Guaifenesin được sử dụng phổ biến trong trị ho.Ở người
lớn, liều được yêu cầu để kích thích bài tiết đờm là 100-200 mg, vì vậy, để đạt
được hiệu quả như lý thuyết, chế phẩm sử dụng cần phải có đủ liều điều trị. Một
số thuốc không kê đơn chứa liều lượng thấp hơn mức liều điều trị.Ở Mỹ, Cục quản
lý an toàn thực phẩm dược phẩm đã kiểm tra các thuốc OTC, và bằng chứng từ các
nghiên cứu cho thấy guaifenesin đủ tiêu chuẩn theo FDA kiểm chứng là đáng tin cậy
với hiệu quả điều trị của nó.
4.2. Các thuốc điều trị ho khác
Thuốc kháng Histamin
Một số thuốc kháng histamin thường có trong các chế phẩm
OTC trị ho là diphenhydramine và promethazine..Về lý thuyết, những thuốc
này làm giảm tần suất ho và có hiệu quả chống tiết chất nhầy, nhưng trong thực
tế thì chúng cũng gây buồn ngủ. Sự kết hợp của thuốc kháng histamine với thuốc
tiêu đờm là không hợp lí và nên tránh.Sự kết hợp giữa 1 thuốc kháng histamine
và một thuốc ức chế ho có thể hữu ích do thuốc kháng histamine có thể giúp ức
chế sự bài tiết chất nhầy và sự kết hợp này có thể được chỉ định dùng vào ban
đêm nếu ho làm gián đoạn giấc ngủ.Đây là một trong những trường hợp hiếm gặp
khi tác dụng phụ lại hữu ích cho bệnh nhân. Các thuốc kháng histamine không an
thần kém hiệu quả hơn trong điều trị triệu chứng ho và cảm do không có hoạt
tính kháng cholinergic.
Tương tác thuốc: Các thuốc kháng histamine truyền thống
không nên được sử dụng cho bệnh nhân đang dùng các thuốc phenothiazine và thuốc
chống trầm cảm 3 vòng bởi nó làm tăng thêm tác dụng kháng cholinergic và an thần.Tác
dụng an thần cũng tăng lên khi dùng
chung với các thuốc có tác dụng ức chế thần kinh trung ương hoặc rượu.Xem trang
57-58 để biết thêm thông tin tương tác thuốc, tác dụng phụ,chống chỉ định của
thuốc kháng histamine.
Thuốc kích thích thần kinh giao cảm
Pseudoephedrine được sử dụng trong điều trị ho và cảm (xem
trang 24 và trang 25 với những thông tin về các hạn chế trong việc kinh doanh) do tác dụng giãn phế quản và chống sung huyết.
Về lý thuyết, thuốc có tác dụng kích thích, dẫn đến mất ngủ ban đêm nếu được sử
dụng vào thời điểm đi ngủ. Nó có thể phù
hợp cho bệnh nhân bị ngạt mũi trong khi bị ho và kết hợp với thuốc long đờm hoặc
chống sung huyết có thể hữu ích với các trường hợp ho có đờm. Thuốc kích thích
thần kinh giao cảm có thể gây tăng huyết áp, kích thích hoạt động tim, những biến
đổi trong kiểm soát bệnh đái tháo đường. Thận trọng khi sử dụng thuốc kích
thích thần kinh giao cảm đường uống cho các bệnh nhân sau:
-
+ Đái tháo đường
-
+ Bệnh mạch vành (ví dụ : đau thắt ngực)
-
+ Tăng huyết áp
-
+ Bệnh cường tuyến giáp
Tương tác thuốc: Tránh sử dụng trong các trường hợp đang
dùng :
Các thuốc ức chế enzyme MAO (ví dụ:
phenelzine)
Thuốc ức chế thuận nghịch enzyme MAO-A (ví dụ:
Moclobemide)
Thuốc chẹn beta giao cảm
Thuốc chống trầm cảm ba vòng (ví dụ
amitriptyline)- Tương tác về mặt lý thuyết,
nhưng không có nhiều ý nghĩa trên lâm sàng
Theophyline
Theophyline đôi khi dùng để trị ho do tác dụng chống giãn phế quản. Không dùng chung các chể phẩm chứa theophyllin
(kê đơn và không kê đơn) do làm tăng nồng độ thuốc trong máu, tăng tính. Một số
thuốc làm tăng tác dụng của Theophylline như cimetidine và erythromycin.
Nồng độ của theophylline trong máu có thể bị giảm
trong trường hợp hút thuốc và các thuốc như carbamazine, phenytoin, và
rifampicin gây cảm ứng các enzyme gan, vì thế chuyển hóa của theophylline tăng
lên và nồng độ trong huyết thanh thấp hơn.
Các tác dụng phụ bao gồm: kích ứng đường tiêu hóa, buồn
nôn, hồi hộp, mất ngủ và đau đầu. Liều dành thông thường cho người lớn là 120
mg, 3-4 lần/ ngày. Thuốc không khuyến nghị dùng cho trẻ em.
5. LƯU Ý TRONG THỰC HÀNH
Bệnh đái tháo đường
Trong giai đoạn cấp tính, lượng đường trong các thuốc
trị ho thường không có ý nghĩa lớn. Việc kiểm soát đái tháo đường thường bị ảnh
hưởng trong khi bị nhiễm trùng, và lượng đường thêm vào được xem như không phải
là vấn đề chính. Tuy nhiên, nhiều bệnh nhân đái tháo đường có thể thích sản phẩm
không đường hơn, cũng như nhiều khách hàng khác cũng mong muốn giảm dung nạp đường
cho chính họ và con cái., và nhiều sản phẩm như vậy thì hiện nay cũng sẵn có
trên thị trường. Với vai trò đóng góp 1 phần vào việc cải thiện sức khỏe răng
miệng, các dược sĩ có thể đảm bảo rằng họ cung cấp và đưa ra đủ các loại thuốc không
đường.
Xông hơi
Biện pháp này có thể hữu ích,đặc biệt trong các trường
hợp ho có đờm. Một tổng quan hệ thống cho thấy hiện nay không đủ bằng chứng để
kết luận về hiệu quả của phương pháp này. Hơi nước giúp hóa lỏng dịch tiết ở phổi
và cung cấp không khí ẩm khiến bệnh nhân
cảm thấy dễ chịu.. Một số người thích xông hơi cùng Methol, tinh dầu tràm…, tuy
nhiên hiện chưa có bằng chứng việc thêm các chất khác vào có hiệu quả hơn so với
xông hơi với nước đơn thuần. Một thìa
café đầy khí xông nên được thêm vào với 500ml nước nóng (chưa sôi) và hơi nước được
hít vào. Ngoài nguy cơ gây bỏng, nước sôi cũng làm bay hơi các thành phần quá
nhanh.Một mảnh vải hay khan có thể được đặt trên đầu để giữ hơi.
Lượng bù dịch
Uống nhiều nước giúp giữ cho phổi đủ ẩm, và nước uống
nóng có thể làm dịu họng. Lời khuyên chung dành cho các bệnh nhân bị ho và cảm
là nên uống nhiều nước
6. CÁC TRƯỜNG HỢP TRONG THỰC HÀNH LÂM SÀNG
Ca 1:
Patel, 1 cô gái
hơn 20 tuổi, yêu cầu bạn đưa ra lời khuyên cho trường hợp ho của con trai cô ấy.Khi
đặt câu hỏi, bạn phải nhận ra rằng, con trai cô ấy, Dillip, 4 tuổi, bị ho và đã
kéo dài trong 1 vài tuần.Cậu bé thường bị ho vào ban đêm, và điều này làm cản
trở giấc ngủ của cậu bé,mặc dù cậu bé dường như không gặp khó khăn gì suốt cả
ngày.Cô ấy đã đưa Dillip đến bác sĩ cách đây khoảng 3 tuần, và bác sĩ có giải
thích rằng không cần thiết phải dùng kháng sinh và tình hình sẽ tự chuyển biến
tốt lên. Cậu bé bị ho khan và cô ấy đã từng đưa một số Simple linctus trước khi
cậu đi ngủ nhưng ho không đỡ hơn.Dillip không uống với bất kì thuốc nào khác.Cậu bé không
đau khi thở hoặc thở gấp.Gần đây cậu cũng gặp phải 1 đợt cảm lạnh.
Quan điểm của dược sĩ
Đây là trường hợp một đứa trẻ 4 tuổi bị ho vào ban đêm
kéo dài suốt vài tuần. Lời khuyên của bác sĩ phù hợp với thời điểm Dillip đến khám.
Tuy nhiên, nên khuyên cậu bé đi khám lại, bởi ho chỉ xảy ra và ban đêm.Cơn ho lặp
lại thường kì vào ban đêm đối với 1 đứa trẻ có thể là triệu chứng của bệnh hen
suyễn, thậm chí ngay cả khi không xuất hiện thở khò khè. Đây có thể là trường hợp
ho là hệ quả của sự kích thích phế quản phổi do nhiễm virus đường hô hấp trên.Cơn
ho có thể kéo dài lên tới 6 tuần và xảy ra ở những người bị hen hoặc có tiền sử
gia đình bị dị ứng (Có khuynh hướng nhạy cảm với các dị nguyên phổ biến như bụi
nhà, lông động vật và phấn hoa). Mặc dù vậy, ho tồn tại trong vòng vài tuần mà
không có sự cải thiện thì nên đi khám
Quan điểm của bác sĩ
Bệnh hen là một khả năng rõ ràng. Cần hỏi xem nếu ai
đó khác trong gia đình bị bệnh hen, cảm mạo hay chàm, và Dillip đã từng bị cảm
mạo hay chàm hay chưa. Các yếu tố trên
đây sẽ giúp khẳng định chẩn đoán. Bệnh hen suyễn nhẹ cơ thể tồn tại mà không có
các triệu chứng thường thấy như khó thở và khò khè.
Một chẩn đoán khác vẫn là nhiễm virus đường hô hấp
trên. Phần lớn các cơn ho khó chịu và thấy rõ rệt hơn suốt đêm. Điều này khiến phụ huynh hiểu nhầm rằng bé chỉ
ho buổi tối. Lưu ý rằng cả 2 chẩn đoán đều
có thể cùng đúng, trong trường hợp nhiễm virus là nguyên nhân khởi phát cho bệnh
hen.. Bởi vì chẩn đoán là không chắc chắn và steroid hít có thể thích hợp, nên đến gặp bác sĩ chuyên
khoa.
Nếu, sau khi khai thác tiền sử và thăm khám ban đầu, bác sỹ
cho rằng bệnh nhân có thể bị hen, việc điều trị sẽ được dựa trên guidelines của
British Thoracic Society mà đã được tổng hợp trong BNF (British National
Formulary). BÌnh thường thì điều này chỉ được thực hiện sau trao đổi và được sự
đồng ý của phụ huynh. Nhiều phụ huynh không muốn chấp nhận rằng con họ bị hen.
Vấn đề tiếp theo là lựa chọn dụng cụ hít thích hợp cho 1 đứa trẻ 4 tuổi.Có thể
dùng bình xịt (spacer) hoặc bình hít (breath-actuated) hay thiết bị phun bột
khô (dry-powder).Thông thường nên thử chế độ liều 2 lần một ngày trong vòng 2-3
tuần và sau đó đánh giá lại để điều chỉnh cho phù hợp.
Quan điểm bệnh nhân
Tôi đã hi vọng dược sĩ có thể cho tôi loại thuốc
nào đó nhưng cô ấy lại cho rằng Dillip nên đến gặp bác sĩ mà chả giải thích được
là tại sao
Ca 2
Một người thanh niên 25 tuổi muốn bạn có thể đưa ra 1
lời khuyên cho trường hợp ho của anh ấy. Giọng anh ấy nghe như thể bị cảm nặng và trông
anh ấy hơi nhợt nhạt. Bạn nhận thấy rằng anh ấy bị ho được vài ngày, bị ngạt
mũi, viêm họng. Anh ta không thấy đau khi thở hoặc thấy khó thở. Lúc đầu, ho có đờm, nhưng sau đó là ho khan và
ho kích ứng. Anh ấy chưa dùng bất kì thuốc
nào và hiện tại cũng không uống bất cứ thuốc kê đơn nào cả.
Quan điểm người dược sĩ
Bệnh nhân này có các triệu chứng của cảm thông thường
và không có dấu hiệu nguy hiểm nào kèm với ho, do đó không cần phải đi khám bác
sỹ. Anh ấy chưa sử dụng thuốc nào, vì vậy
có rất nhiều sự lựa chọn cho bạn..Bạn có thể giới thiệu thuốc để điều trị triệu
chứng ngạt mũi cũng như là tình trạng ho của anh ấy, ví dụ, một chất ức chế ho
và 1 chất kích thích thần kinh giao giảm.Simple Linctus và một thuốc chống xung
huyết toàn thân hoặc tại chỗ cũng có thể là 1 sự lựa chọn. Nếu thuốc chống xung
huyết tại chỗ được chỉ định dùng, anh ấy nên được cảnh báo sử dụng thuốc này
không được quá 1 tuần để tránh khả năng
bị xung huyết trở lại.
Quan điểm của bác sĩ
Quan điểm của bác sĩ
Các lời khuyên của dược sỹ hoàn toàn hợp lý. Có thể giải
thích thêm rằng anh ấy đang bị nhiễm virus, do đó sẽ tự khỏi và cải thiện tốt hơn trong vòng vài
ngày.Nếu bệnh nhân là một người hút thuốc, đây sẽ là lúc thích hợp để khuyến
khích anh ấy từ bỏ thuốc.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire