Tổng quan về hiệu quả và an toàn của Quinvaxem từ các dữ liệu trong y văn (bài rút ngắn)
TS.DS. Võ
Thị Hà, giảng viên ĐH Y Dược Huế
Thông tin liên lạc: Thi Ha VO, Equipe ThEMAS, Labo TIMC-IMAG, 38700 La Tronche, France. Email: havothipharma@gmail.com
Vắc xin Quinvaxem còn gọi là vắc xin “5
trong 1” là vắc xin phối hợp gồm giải độc tố vi khuẩn bạch hầu (BH), uốn ván
(UV), vi khuẩn ho gà bất hoạt toàn tế bào (HG), kháng nguyên vi rút viêm gan B (VGB)
và kháng nguyên vi khuẩn Haemophilus influenzae type b (Hib) phòng hai bệnh
chính là viêm phổi và viêm màng não.
1. Phương pháp tra cứu thông
tin của Quinvaxem trong y văn như thế nào ?
Hiện nay, chủ đề về an toàn và hiệu quả của Quinvaxem đang được cộng đồng
quan tâm, là một dược sĩ chuyên về dược lâm sàng, đang học nghiên cứu sinh năm
cuối tại Pháp, với điều kiện tiếp cận các cơ sở dữ liệu y khoa đầy đủ, tôi đã
giành ra trọn vẹn hơn 2 tuần để tổng hợp các thông tin liên quan đến Quinvaxem
trong y văn. Thủ thuật tìm kiếm thông tin bằng cách sử dụng từ khóa
"Quinvaxem" trên cơ sở dữ liệu y khoa nổi tiếng Pubmed thu được 8
nghiên cứu liên quan.
2. Có những nghiên cứu nào liên
quan đến Quinvaxem ?
Có 8 nghiên cứu chính liên quan đến Quinvaxem đã được xác định. Sau khi
hoàn thành các nghiên cứu Penta 001 (tại Thổ Nhĩ Kỳ), Penta 002 (tại Argentina),
Penta 004 (tại Nam Phi), 005 (tại Salvador)
tiến hành trên 150-360 trẻ dùng
Quinvaxem, dựa trên các dữ liệu an toàn - hiệu quả thu được từ 4 nghiên cứu này,
Quinvaxem nhận được chứng chỉ "tiền chất lượng" của Tổ chức y tế thế
giới (WHO). Sau đó, một nghiên cứu hậu mãi Penta PMS được tiến hành nhằm thu thập
chủ động các tác dụng có hại (TDCH) khi sử dụng Quinvaxem trên một quần thể lớn
gồm 3.000 trẻ tại Guatemala. Nghiên cứu Penta 006 (Ấn Độ) và Penta 008 (Việt
Nam) được tiến hành để thử tính hiệu quả/an toàn của Quinvaxem trước khi phê
duyệt dùng Quinvaxem rộng rãi tại Ấn Độ và Việt Nam. Nghiên cứu Penta 007 tại
Phillipine để thử khả năng chuyển đổi vaccin khác sang Quinvaxem.
3. Bằng chứng liên quan đến hiệu quả của Quinvaxem như thế nào ?
Hiệu quả về sinh miễn dịch của Quinvaxem được đánh giá bằng cách đo nồng độ
kháng thể kháng kháng nguyên đặc hiệu ở trẻ trước và sau khi tiêm đủ liều (3 liều)
vắc xin hoặc sau khi tiêm liều tăng cường (liều thứ 4). Quinvaxem cho thấy có
tác dụng sinh miễn dịch cao. Một tháng sau khi được tiêm vắc xin, trên 97% trẻ
có đủ kháng thể để phòng bệnh HB-HG-UV và Hib và 91-98% trẻ có khả năng phòng bệnh
VGB [1].
4. Bằng chứng liên quan đến an
toàn của Quinvaxem như thế nào ?
Tính an toàn và khả năng dung nạp được đánh giá trong tất cả các nghiên cứu
lâm sàng. Các TDCH không nghiêm trọng
cũng tương tự như các loại vaccin khác bao gồm: các phản ứng tại chỗ (đỏ, chai
cứng da nơi tiêm, đau); các phản ứng trên hệ thống (sốt, ngủ li bì, tiêu chảy,
dễ kích thích, khóc bất thường, khóc dai dẳng...).
Mọi người đang quan tâm đến thông tin liên quan đến tác dụng có hại nghiêm
trọng (TDCHNT) và tử vong, nên tôi sẽ phân tích kỹ dữ liệu này. TDCHNT là những
trường hợp gây tử vong, các bệnh đe dọa tính mạnh, khuyết tật vĩnh viễn, đòi hỏi
nhập viện hay kéo dài thời gian nằm viện [2]. Kết quả của nghiên cứu Penta PSM chỉ giới thiệu tại Hội
nghị dưới dạng bài tóm tắt ngắn, thiếu một số thông tin nên tôi loại nghiên cứu
này trong số liệu tổng hợp. Trong 7
nghiên cứu (Penta 001, 002, 004, 005, 006, 007, 008) tiến hành trên 1.568 trẻ với 4.159 mũi tiêm Quinvaxem, có 51
TDCHNT (tương ứng 12 ca/1.000 mũi
tiêm) và trong đó có 4 TDCHNT liên
quan đến dùng vắc xin (tương ứng 0,96
ca/1.000 mũi tiêm) và 4 trường hợp tử
vong (tương ứng 0,96 ca/1.000 mũi
tiêm) và 0 trường hợp tử vong được
cho là có liên quan đến dùng vắc xin (0%). Các trường hợp TDCHNT được đánh
giá là liên quan đến dùng vắc xin là viêm tiểu phế quản, co giật, giảm đáp ứng
- giảm trương lực, tăng huyết áp, kích thích. Các TDCHNT khác bao gồm: viêm phổi-phế
quản do vi rút, viêm phổi, nhiễm virus hô hấp hợp bào, viêm tiểu phế quản, nhiễm
khuẩn do virus, thiếu máu, trào ngược dạ dày thực quản. Như vậy,
TDCHNT và tử vong đều đã được ghi nhận trong y văn, tuy nhiên tỷ lệ gặp TDCHNT
được cho là do vaccin rất thấp (chưa đến 1 ca trên 1.000 mũi tiêm) và không có
trường hợp tử vong nào được xác định là do vaccin.
Bảng 1 tổng hợp các thông tin về an toàn Quinvaxem trong các
nghiên cứu.
Bảng 1. Thông
tin về an toàn Quinvaxem trong các nghiên cứu.
STT
|
Nghiên cứu
quốc gia tác giả (năm)
|
Lịch tiêm
|
SL trẻ
|
SL trẻ/nhóm chứng
|
TDCHNT
|
TDCHNT do
vaccin
|
Tử vong
|
Tử vong do
vaccin
|
1
|
Penta 001
Thỗ Nhĩ Kì
Kanra G at al.
(2006) [3]
|
2-3-4
tháng
|
152
|
151
|
0
|
0
|
0
|
0
|
2
|
Penta 002 Argentina
Gentile A et al. (2011) [4]
|
2-4-6 tháng
|
218
|
-
|
26
|
1
|
1
|
0
|
3
|
Penta 004 Nam Phi
|
6-10-14
tuần
|
360
|
-
|
9
|
0
|
2
|
0
|
4
|
Penta 004 Nam
Phi
|
18+3
tháng (liều tăng cường)
|
227
|
-
|
-
|
-
|
-
|
-
|
5
|
Penta 005
Salvador
Suarez
E at al. (2010) [6]
|
Liều
tăng cường, tiêm tại tháng thứ 15-24
|
150
|
149
|
0
|
0
|
0
|
0
|
6
|
Penta SPM
Guatemala
Asturias EJ at
al. (2011) [7]
|
2-4-6
tháng
|
3.000
|
-
|
-
|
-
|
-
|
-
|
7
|
Penta 006
Ấn Độ
Eregowda
A et al (2014) [8]
|
6-10-14
tuần tuổi
|
161
|
-
|
3
|
0
|
KR
|
KR
|
8
|
Penta 007
Philippin
Capedinga
MRZ et al. (2014) [9]
|
6-10-14
tuần tuổi
|
400
|
200
|
2
|
0
|
1
|
0
|
9
|
Penta 008
Vietnam
Huu
et al (2012) [10]
|
2-3-4
tháng
|
131
|
-
|
11
|
0
|
0
|
0
|
Tổng
|
|
|
|
|
51
|
4
|
4
|
0
|
5. Các dữ liệu an toàn tại một số
nước trên thế giới ra sao ?
Vắc xin Quinvaxem do hãng Berna Biotech, Hàn Quốc sản xuất,
đạt tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và được WHO khuyến cáo sử dụng
từ năm 2006. Tính tới năm 2013, hơn 400 triệu liều vắc xin Quinvaxem đã được sử
dụng ở 91 quốc gia. Vaccin Quinvaxem cũng là vaccin 5 trong 1 được sử dụng
nhiều nhất trên thế giới. Các vaccin 5 trong 1 khác như Pentavac, Easyfive-TT,
Shan5 chỉ được sử dụng với khoảng 24-55 triệu liều.
Hội tư vấn toàn cầu về
an toàn vắc xin (GACVS) vào 6/2013 về an toàn của Quinvaxem đã báo cáo tình
hình an toàn khi sử dụng Quinvaxem tại 4 nước châu Á: Bhutan, Sri Lanka, Ấn Độ
và Việt Nam [11]. Ở cả 4 nước đều
phát hiện rải rác một số trẻ gặp TDCHNT hay tử vong nên cơ quan chức năng cùng
WHO đã cho tạm dừng sử dụng Quinvaxem một thời gian để tiến hành điều tra, đánh
giá kịp thời. Tại Việt Nam, Quinvaxem được đưa vào chương trình TCMR từ 6/2010. Dữ liệu
về hiệu quả và an toàn của Quinvaxem cũng đã được đánh giá sơ bộ trên 113 trẻ
trước khi Quinvaxem được đưa vào dùng rộng rãi [10]. Từ 6/2010 đến 5/2013 (3 năm) có 43 TDCHNT,
trong đó 27 ca tử vong được báo cáo sau khi dùng Quinvaxem. Do đó, cơ
quan chức năng cho dừng tiêm Quinvaxem vào 6/2013 mà mời các chuyên gia WHO
cùng các chuyên gia Việt Nam đánh giá các trường hợp nói trên. Kết quả đánh giá
độc lập của WHO cho thấy dường như 9 trường hợp hồi phục có thể là những phản ứng
liên quan đến vắc xin, hiếm gặp những đã biết trong y văn. Các
trường hợp TDCHNT khác, bao gồm cả tử vong được báo cáo ở VN là hoặc trùng hợp
với các vấn đề sức khỏe ngẫu nhiên nhưng không liên quan đến Quinvaxem hoặc các
trường hợp mà thông tin thu được không cho phép đưa ra quyết định khẳng định. Tuy
nhiên, những ca tử vong và nghiêm trọng này không có các yếu tố có thể liên
quan đến dùng vaccin[12]. Hai tháng sau, vào 7/2013, WHO tiếp tục cập nhật khẳng
định chất lượng của các lot vaccin [13]. Đến tháng 11/2013, vaccin này được đưa vào tiêm tiếp
cho trẻ [14]. Và cho từ 2013 đến nay đã có khoảng 24,9 triệu liều
Quinvaxem đã sử dụng với trung bình 4,5 triệu liều/năm cho 1,5 triệu trẻ [15].
Như vậy, với các dữ liệu và đánh giá của các chuyên
gia của nước sở tại phối hợp cùng các chuyên gia của WHO tại 4 nước đều đi đến
kết luận thống nhất là các trường hợp tử vong hoặc là do trùng hợp với các vấn
đề sức khỏe ngẫu nhiên nhưng không liên quan đến Quinvaxem hoặc là thông tin
lâm sàng thu được không cho phép đưa ra quyết định khẳng định, trong khi lợi
ích mang lại của Quinvaxem là vượt trội hơn so với nguy cơ, nên ở cả 4 nước đều
cho phép dùng lại Quinvaxem.
6. Những lập luận nào chứng
tỏ Quinvaxem là an toàn tại Việt Nam ?
Thứ nhất,
dựa vào kết luận đánh giá của các Hội đồng tư vấn chuyên môn đối với các trường
hợp gặp TDCHNT và tử vong tại Việt Nam. Theo báo cáo của Cục dự phòng - BYT [16], trong thời
gian từ 1/1/1015 đến 20/9/2015, có 32 trường hợp TDCHNT trong đó 16 tử
vong được ghi nhận từ nhiều loại vaccin khác nhau, trong đó có 16
TDCHNT và 8 tử vong sau khi tiêm Quinvaxem. Trong số 32 trường hợp đã
được Hội đồng tư vấn chuyên môn đánh giá (Hội đồng cấp tỉnh) kết luận 10 trường
hợp do trùng hợp ngẫu nhiên (chiếm 31%), trong đó có 09 trường hợp tử
vong và 01 trường hợp hồi phục; 15 trường hợp do sốc phản vệ/phản ứng quá
mẫn và phản ứng sau tiêm vaccin đã hồi phục (chiếm 47%) và 7
trường hợp tử vong không rõ nguyên nhân (chiếm 22%), căn nguyên đột tử
thường gặp ở trẻ 2-4 tháng tuổi. Đây là thống kê chung cho nhiều loại vắc xin,
báo cáo không cung cấp thông tin chi tiết liên quan cụ thể đến Quinvaxem. Tới
đây Bộ Y tế sẽ thành lập một hội đồng chuyên môn với sự tham gia của các chuyên
gia đầu ngành của y tế đánh giá lại các kết luận của hội đồng tuyến tỉnh sau đó
sẽ đưa ra quyết định [17]. Tất cả các
thông tin này đều được đăng công khai trên trang web của Cục dự phòng - BYT.
Thứ hai, dựa
trên so sánh dữ liệu về an toàn của Quinvaxem với nhiều tiêu chí khác nhau. Vì
không tìm được số liệu chính xác về số TDCHNT và tử vong trong thời gian từ khi
bắt đầu dùng Quinvaxem năm 2007 đến nay (9/2015). Nên sẽ thử tính ước lượng con
số này từ các dữ liệu thu được. Từ năm 2007 đến 1/2014 có 63 ca tử vong [18] sau dùng Quinvaxem và trong 9 tháng từ 1/2015 đến
9/2015 có 8 tử vong. Giả sử tỷ lệ gặp TDCHNT và tử vong của năm 2014 tương tự
năm 2015 thì sẽ có khoảng 11 ca tử vong năm 2014. Vậy tổng số có khoảng 82 ca tử
vong tương ứng với khoảng 24,9 triệu liều Quinvaxem dùng từ năm 2007 đến
9/2015.
Trong các nghiên cứu, tương ứng có 0,96 ca tử
vong/1.000 mũi tiêm và không có trường hợp tử vong được cho là có liên quan đến
dùng vắc xin. Tại Việt Nam, với khoảng 24,9 triệu mũi tiêm có khoảng 82 ca tử
vong tương ứng 0,0033 ca tử vong/1.000 mũi tiêm và cũng không có ca tử vong nào
được cho là do vắc xin. Như vậy, tỷ lệ bị TDCHNT và tử vong trên thực
tế tại Việt Nam thấp hơn rất nhiều lần trong các nghiên cứu lâm sàng (thấp hơn
290 lần) và đều không có ca nào được khẳng định là do vaccin.
Tỷ lệ tử vong trẻ trên 1 tháng tuổi và dưới 1 tuổi
(khoảng tuổi tiêm 3 liều Quinvaxem) là 0,0125/ngày/1.000 trẻ [19]. Nếu bao gồm tất cả các nguyên nhân gây tử vong, dự
kiến có khoảng 104 trẻ tử vong có thể xuất hiện với 8,3 triệu trẻ vào ngày tiêm
vắc xin, do tình cờ. Trên thực tế chỉ có 82 trẻ tử vong. Như vậy, tỷ lệ tử vong của trẻ
sau tiêm Quinvaxem nhỏ hơn tỷ lệ tử vong của trẻ tử vong do tất cả các nguyên
nhân. Theo Cục dự phòng - BYT, hàng ngày ước tính ở Việt Nam có khoảng
70 trẻ em dưới 1 tuổi bị tử vong không rõ nguyên nhân hoặc do các nguyên nhân
khác nhau. Nếu các dấu hiệu của bệnh chưa được phát hiện tại thời điểm tiêm chủng
thì rất dễ có sự trùng hợp giữa thời điểm bệnh tiến triển và tiêm chủng, vì thế
các dấu hiệu bất thường và tử vong sau tiêm rất dễ bị quy kết sai lầm là do
tiêm chủng.
Việc sử dụng 2 loại vaccin Infanrix Hexa và Pentaxim
tại các cơ sở tiêm chủng dịch vụ chỉ bằng 8% so với vaccin Quinvaxem. Cho đến
nay, chúng ta chưa ghi nhận trẻ tử vong do tiêm vắc-xin dịch vụ. Việt Nam đã
dùng 24,9 triệu mũi Quinvaxem và có khoảng 82 trẻ tử vong, như vậy cần có ít
nhất 304.000 mũi tiêm mới phát hiện 1 trẻ tử vong. Vì vậy, với 100.000-200.000
mũi tiêm vô bào dịch vụ/năm chưa phát hiện ca tử vong nào cũng không loại trừ
khả năng là số mũi tiêm dịch vụ chưa đủ lớn để phát hiện một ca tử vong [20]. Thêm vào
đó, gần đây, bởi vì ho gà có xu hướng xuất hiện ở các trẻ vị thành niên mặc dù
đã được dùng vaccin vô bào dịch vụ ở nhiều nước khi còn nhỏ đã làm các nhà lâm
sàng đặt câu hỏi về khả năng bảo vệ dài hạn của vaccin vô bào là không đủ. Nên
những cuộc thảo luận đang diễn ra ở nhiều nước quanh chủ đề là có nên quay lại
dùng vaccin toàn tế bào ở những nước đã dùng vaccin vô bào hay không [8].
FDA và Viện thuốc Hoa Kỳ (Institute of Medicine - IOM)
xem xét 206 ca tử vong báo cáo với trong suốt 1990-1991. Chỉ có một ca tử vong
được tin là do vắc xin. Bệnh nhân nữ 28 tuổi chết do hội chứng Guillain-Barré
sau khi tiêm vaccin uốn ván. IOM kết luận hầu hết các ca tử vong báo cáo là ngẫu nhiên
và không do tiêm vắc xin.
Có nhiều lựa
chọn vaccin có thể thay thế cho Quinvaxem như dùng vaccin phối hợp "3
trong 1", "4 trong 1", "5 trong 1" hay "6 trong 1"
khác. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của bài báo này, chỉ tập trung tổng hợp dữ
liệu về an toàn và hiệu quả của Quinvaxem. Một vaccin nếu được chứng mình là đủ
hiệu quả và an toàn qua các thử nghiệm lâm sàng thì mới được cấp phép sử dụng
đại trà. Còn việc lựa chọn loại vaccin nào sử dụng cho cá nhân hay cho cộng
đồng lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như hiệu quả, an toàn, kinh tế, sự sẵn
có, tổ chức.
Cần đánh giá
nguy cơ khi dùng vaccin Quinvaxem trong mối tương quan với những lợi ích mà vaccin
có thể mang lại trong việc phòng bệnh. Tôi xin tổng hợp ngắn gọn một số thông
tin liên quan đến các bệnh mà Quinvaxem có tác dụng phòng bệnh.
Bạch hầu: Do thực hiện tốt việc tiêm vắc-xin
bạch hầu nên tỷ lệ mắc bạch hầu ở Việt Nam đã giảm dần từ 3,95/100.000 dân năm
1985 xuống 0,14/100.000 dân năm 2000 [21]. Tỷ lệ tử
vong đối với bạch hầu trung bình từ 5%–10 [22]. Hiện nay,
Việt Nam sau nhiều năm chỉ ghi nhận dưới 10 ca nhờ tiêm phòng vắc xin, nay đang
phải đối mặt với nguy cơ bệnh bạch hầu, số mắc bệnh hàng năm chỉ trong 9 tháng
đầu năm 2015 đã ghi nhận 9 trường hợp mắc, tăng so với cùng kỳ năm 2013 (2 ca)
và 2014 (6 ca) [23]. Dịch bạch
hầu đang bùng phát tại Lào với gần 600 ca, 11 người tử vong. Bộ Y tế Việt Nam
lo ngại nguy cơ rất lớn dịch lây
truyền sang các khu vực thôn bản vùng biên giới [24].
Ho gà: Tại Việt Nam, mặc dù số mắc ho gà trong những năm gần
đây đã giảm hàng trăm lần so với trước khi triển khai vắc xin, song trong năm
2013 còn ghi nhận 54 ca ho gà rải rác trên toàn quốc tương ứng tỷ lệ mắc 0,06/
100.000 dân. Tuổi mắc bệnh chủ yếu là trẻ dưới 1 tuổi (chiếm 39% số ca ho gà
năm 2013). Từ đầu năm 2015 đến nay,
riêng bệnh viện Nhi Trung Ương đã có gần 300 trường hợp mắc bệnh ho gà nhập
viện và có 2 trường hợp tử vong. Trong đó có nhiều trẻ khoảng trên dưới
3 tháng tuổi, đa số nhóm tuổi này mắc bệnh ho gà nặng và chưa được tiêm vaccin hoặc
tiêm nhưng chưa đầy đủ [25].
Uốn ván: Bệnh viện bệnh nhiệt đới, HCM đã điều trị cho 2422
bệnh nhân bị uốn ván trên 1 tuổi giữa 4/1993 đến 12/2002. Trong thời gian này
Việt Nam đang triển khai dùng vaccin phòng uốn ván. Tỷ lệ trẻ dưới 10 tuổi nhập
viện vì uốn ván giảm từ 11,1 xuống còn
5,6% trong vòng 10 năm (P = 0.002). Tỷ lệ tử vong cũng giảm từ 28% năm 1994 còn
10% năm 2002. Sự giảm đáng kể tỷ lệ mắc uốn ván xảy ra ở nhóm tuổi được chương
trình TCMR nhắm đến (vì vaccin uốn ván trong chương trình TCMR có khả năng
phòng bệnh trong 10 năm). Tỷ lệ tử vong của uốn ván từ 10 - 90% [26].
Viêm gan B: Việt Nam là nước có tỷ lệ hiện mắc
viêm gan B cao; ước tính có khoảng 8,6 triệu người nhiễm vi rút viêm gan B [27]. Đây là
nguyên nhân chính gây ra tới hơn 80% các ca bệnh về gan và ung thư gan [28]. Tiêm chủng
vaccin viêm gan B cho tất cả trẻ sơ sinh đã được triển khai từ năm 2003. Tỷ lệ
bao phủ của vaccin viêm gan B năm 2012 là 97%. Theo một cuộc khảo sát năm 2011,
chỉ còn 2% trẻ dưới 5 tuổi bị nhiễm vi rút viêm gan B [27].
Bệnh liên quan đến Hib: Trên toàn
quốc, mỗi năm có 5.107 ca nhập viện vì viêm phổi do H. influenzae ở trẻ dưới 5
tuổi. Một nghiên cứu khác chỉ ra rằng, Hib là căn nguyên gây tỉ lệ viêm màng
não xâm lấn do vi khuẩn ở trẻ dưới 5 tuổi: 22,9 ca trên 100.000 trẻ. Nhóm tuổi
có tỉ lệ mắc bệnh do Hib cao nhất là trẻ sơ sinh (87,9/100.000 trẻ) và trẻ dưới
2 tuổi (32,9/100.000) [1].
Một nghiên cứu khác chỉ ra rằng Hib là căn nguyên phổ
biến thứ 2 gây ra tỉ lệ mắc bệnh nhiễm khuẩn xâm lấn ở trẻ dưới 5 tuổi:
22,9/100.000. Việc đưa vaccin Hib vào chương trình tiêm chủng sẽ giúp giảm tỉ
lệ mắc bệnh nhiễm khuẩn xâm lấn ở trẻ.
9. Những khó khăn khi quy kết nguyên nhân giữa TDCHNT và tử vong với
việc tiêm vaccin ? Những giải pháp ?
Theo báo cáo của GACVS, một số hạn chế được ghi nhận ở
cả 4 nước: Thiếu thông tin lâm sàng đầy đủ đã làm phức tạp đáng kể về việc đánh
giá nguyên nhân. Đối với một số ca, thông tin lâm sàng bổ sung cho phép xác định
nguyên nhân tử vong khác được xác định. Đối với các ca khác, không đủ thông tin
lâm sàng cho phép khẳng định nguyên nhân tử vong, bao gồm cả khả năng tử vong
do Hội chứng tử vong sơ sinh đột ngột (SIDS) [11]. Với việc tần suất SIDS cao nhất xảy ra ở trẻ sơ
sinh, mối liên hệ tạm thời giữa SIDS và việc dùng Quinvaxem được tiên lượng là
do trùng hợp ngẫu nhiên.
Tuy nhiên, GACVS cũng nhấn mạnh thêm, để đánh giá tín
hiệu về an toàn, điều quan trọng là các nước cần hiểu về tỷ lệ tử vong sơ sinh
của nước mình và các nguyên nhân của chúng. Nếu một TDCHNT tạo nên mối lo ngại
cho cộng đồng thì cần tiến hành các nghiên cứu dịch tễ bổ sung để xác định các
yếu tố có thể được dùng để đánh giá các giả thuyết về nguy cơ có thể [11]. Thêm một yếu tố về văn-xã hội đặc thù tại Việt Nam,
việc cho phép khám nghiệm tử thi trẻ sau khi tử vong để có thể điều tra sâu hơn
về nguyên nhân thường không phải luôn được chấp nhận bởi bố mẹ và người thân của
trẻ. Điều này cũng gây khó khăn hơn cho việc quy kết nguyên nhân. Một yếu tố
khác là các thông tin chi tiết về quy trình đánh giá các trường hợp cụ thể
không được chia sẽ công khai, có thể làm giảm niềm tin của giới chuyên môn và cộng
đồng về kết luận của Hội đồng. Việc thành lập Hội đồng quốc gia đánh giá lại, với
sự tham gia của nhiều chuyên gia, đặc biệt là các chuyên gia từ Trung tâm Cảnh
giá dược quốc gia sẽ góp phần đưa ra một kết luận đánh giá cuối cùng hoàn chỉnh
và chính xác hơn.
Cần truy cập thêm nhiều nguồn
thông tin khác để có một đánh giá toàn diện hơn
Trong khi tiến hành tổng hợp bản báo cáo này, một điều
khó khăn khi tổng hợp thông tin là một số thông tin quan trọng bị thiếu hoặc
không đầy đủ hoặc không tiếp cận được. Việc có đầy đủ thông tin hơn, bảo đảm có
một cái nhìn toàn diện và chính xác hơn.
Cần thận trọng cân nhắc yếu
tố mâu thuẫn lợi ích khi đánh giá các dữ liệu, nhận định trong nhiều bài báo khoa
học
Mâu thuẫn lợi ích (conflict of interest) là một tình
huống mà một cá nhân hay tổ chức có nguy cơ đưa ra một đánh giá/hành động nghề
nghiệp hay chuyên môn không vì lợi ích cơ bản nghề nghiệp của mình (trong trường
họp đối với nhân viên y tế là sức khỏe của bệnh nhân) mà bị ảnh hưởng bởi một lợi
ích khác (thường là lợi ích về tài chính). Trong cả 8 nghiên cứu chính được tổng
hợp trong báo cáo này đều có một hay nhiều tác giả trong nghiên cứu là nhân
viên của công ty dược liên quan đến sản xuất Quinvaxem. Vì vậy, cần tiếp cận,
trao đổi và yêu cầu các dữ liệu đầy đủ, công khai, chi tiết hơn về các kết quả,
diễn tiến của nghiên cứu. Và các dữ liệu này cần được đánh giá độc lập bởi các
hội đồng chuyên môn độc lập - khách quan.
Các tín hiệu TDCHNT và tử vong
ghi nhận từ cộng đồng nên được xử lý với tinh thần cầu thị, thận trọng
Dù cho kết quả của các nghiên cứu lâm sàng có khẳng định
độ an toàn của bất kì vaccin nào, thì điều đó cũng không khẳng định chắc chắn
là vaccin sẽ vẫn an toàn khi sử dụng trên diện rộng trong cộng đồng. Vì hạn chế
của các thiết kế nghiên cứu là thường tiến hành trên số lượng rất ít trẻ, đặc
điểm của trẻ có thể không tương đồng với đặc điểm trên thực tế của cộng đồng...nên
các nghiên cứu hậu mãi tiến hành trên số lượng lớn trẻ cùng với hệ thống thu thập,
đánh giá các thông tin về TDCH, TDCHNT và tử vong trong cộng đồng là thông tin
rất hữu ích để bổ sung thông tin về an toàn của vắc xin.
Ở góc độ quản lý, việc quyết định có nên giữ Quinvaxem
là vaccin trong chương trình TCMR hay không, có những giải pháp nào thay thế là
một câu hỏi cần sự đánh giá tổng thể của nhiều chuyên gia liên quan đến nhiều yếu
tố. Cần so sánh Quinvaxem với các lựa chọn thay thế trên nhiều yếu tố hiệu quả,
an toàn, kinh tế, tổ chức. Việc tiến hành này đòi hỏi số lượng lớn các chuyên
gia từ nhiều lĩnh vực khác nhau, dựa trên các nguồn dữ liệu phong phú, tin cậy,
khách quan. Kết quả của việc đánh giá, so sánh này cho phép đưa ra quyết định
có lợi nhất cho cộng đồng ở góc nhìn vĩ mô.
Ở góc độ cá nhân của mỗi gia đình có trẻ trong độ tuổi
cần đi tiêm chủng Quinvaxem, từ những dữ liệu hiện có về tính hiệu quả đã được
khẳng định của Quinvaxem, cũng như các dữ liệu về TDCHNT hay tử vong tại Việt
Nam vẫn thấp hơn khi so sánh với nhiều tiêu chí khác nhau, trong khi nguồn vaccin
thay thế Quinvaxem rất hạn chế hiện tại và nguy cơ nhiều dịch bệnh bùng phát
trong thời gian tới, lợi ích mang lại khi dùng Quinvaxem vẫn cho thấy vượt trội
hơn so với nguy cơ mà nó gây nên.
1. Schmid
DA, Macura-Biegun A, Rauscher M. Development and introduction of a ready-to-use
pediatric pentavalent vaccine to meet and sustain the needs of developing
countries-Quinvaxem®: the first 5 years. Vaccine. 2012;30(44):6241-8.
2. Miller Elaine R, Penina H, Hibbs
Beth, Broder Karen. Manual for the Surveillance of Vaccine-Preventable
Diseases. 2014 [cited 2015 21 Nov]; Available from:
http://www.cdc.gov/vaccines/pubs/surv-manual/chpt21-surv-adverse-events.html
3. Kanra G, Kara A, Demiralp O,
Contorni M, Hilbert AK, Spyr C, et al. Safety and immunogenicity of a new fully
liquid DTPw–HepB–Hib combination vaccine in infants. Hum Vaccin. 2006;2:155-60.
4. Gentile A, Umido V, Czerniuk P,
Nacul J, Seigelchifer M, Hilbert AK, et al. Immunogenicity and reactogenicity
of a combined fully liquid DTPw–HepB–Hib pentavalent vaccine in healthy
infants: no clinically relevant impact of a birth dose of hepatitis B vaccine.
Int J Infect Dis. 2011;15(1):e24–9.
5. Aspinall S, Traynor D, Bedford P,
Hartmann K. Lot-to-lot consistency study of the fully liquid pentavalent
DTwP-HepB-Hib vaccine Quinvaxem (®) demonstrating clinical equivalence,
suitability of the vaccine as a booster and concomitant administration with
measles vaccine. Hum Vaccin Immunother. 2012;8(8):1109-18.
6. Suarez E, Asturias EJ, Hilbert AK,
Herzog C, Aeberhard U, C S. Suarez E, Asturias EJ, Hilbert AK, Herzog C,
Aeberhard U, Spyr C. A fully liquid DTPw–HepB–Hib combination vaccine for
booster vaccination of toddlers in El Salvador. Rev Panam
Salud Publica. 2010;27:117-24.
7. Asturias
EJ, Contreras IL, Ram M, Rivera JG, de Melgar AJ, de Oquendo V, et al. A large, prospective
observational safety study in a real life situation of cohorts vaccinated with
the pentavalent combination vaccine Quinvaxem® (DTP–HepB–Hib fully liquid) when
administered at 2, 4, and 6 months of age.
Poster presentation at meeting of the Sociedad Latinoamericana de
Infectología Pediátrica (SLIPE); 2011.
8. Eregowda A, Lalwani S, Chatterjee S,
Vakil H, Ahmed K, Costantini M, et al. A phase III single arm, multicenter,
open-label study to assess the immunogenicity and tolerability of a pentavalent
DTwP–HepB–Hib vaccine in indian infants. Hum Vaccin Immunother.
2013;9(9):1903-9.
9. Capedinga MRZ, Jicab C,
Macura-Biegunb A, Rauscherb M, Albertoa E. Interchangeability of Quinvaxem
during primary vaccination schedules: Results from a phase IV, single-blind,
randomized, controlled, single-center, non-inferiority study. Vaccine.
2014;32(7):888-94.
10. Huu TN, Phuong NTM, Toan NT, Thang HV,
Huong VTG, Nghia CH, et al. Assessment of the immunogenicity and safety of
Quinvaxem(registered trademark) (DTwP-HepB- Hib) against diphtheria, pertussis,
tetanus, hepatitis B and diseases caused by H. influenzae among healthy
Vietnamese children. International Journal of Infectious Diseases.
2012;16:SUPPL.1:e304–e5.
11. WHO. Global Advisory Committee on
Vaccine Safety review of pentavalent safety concerns in four Asian
countries. 2013 [cited 2015 21 Nov]; Available from:
http://www.who.int/vaccine_safety/committee/topics/hpv/GACVSstatement_pentavalent_June2013.pdf
12. WHO. Safety of Quinvaxem
(DTwP-HepB-Hib) pentavalent vaccine.
2013 [cited 2015 21 Nov];
Available from:
http://www.who.int/immunization_standards/vaccine_quality/quinvaxem_pqnote_may2013/en/
13. WHO. Update on quality and safety of
Quinvaxem (DTwP-HepB-Hib) pentavalent vaccine.
2013 [cited 2015 21 Nov];
Available from: http://www.who.int/immunization_standards/vaccine_quality/quinvaxem_pqnote_june2013/en/
14. Nguyễn Hoàng. Lý do trẻ tử vong sau tiêm
vắc-xin Quinvaxem gần đây: Cục trưởng Cục Y tế dự phòng nói gì? . 2015
[cited 2015 21 Nov]; Available from:
http://suckhoedoisong.vn/thoi-su/ly-do-tre-tu-vong-sau-tiem-vac-xin-quinvaxem-gan-day-cuc-truong-cuc-y-te-du-phong-noi-gi-20151101195954721.htm
15. Cục
Y tế dự phòng - Bộ Y tế. Nội dung cuộc phỏng vấn Ông Kohei Toda- Chuyên gia
tiêm chủng của Tổ chức Y tế thế giới về sử dụng vắc xin Quinvaxem. 2015 [cited 2015 21
Nov]; Available from:
http://vncdc.gov.vn/vi/tiem-vac-xin-soi-rubella-tre-1-14-tuoi/764/noi-dung-cuoc-phong-van-ngai-kohei-toda-chuyen-gia-tiem-chung-cua-to-chuc-y-te-the-gioi-ve-su-dung-vac-xin-quinvaxem
16. Cục
Y tế dự phòng - Bộ Y tế. TÌNH HÌNH PHẢN ỨNG SAU TIÊM CHỦNG (Từ ngày 01/01//2015
ĐẾN 30/9/2015) 2015 [cited 2015 21 Nov];
Available from:
http://vncdc.gov.vn/vi/hoat-dong-nra/778/tinh-hinh-phan-ung-sau-tiem-chung-tu-ngay-01-01-2015-den-30-9-2015
17. Hồng
Hải. Liên tiếp phản ứng nặng do Quinvaxem: Không thể cứ có tai biến là thay vắc
xin! 2015 [cited 2015 22
Nov]; Available from:
http://dantri.com.vn/suc-khoe/lien-tiep-phan-ung-nang-do-quinvaxem-khong-the-cu-co-tai-bien-la-thay-vac-xin-20151030234839839.htm
18. Another baby dies after Quinvaxem
vaccination. 2014 [cited 2015 21 NOv]; Available from:
http://tuoitrenews.vn/society/16937/another-baby-dies-after-quinvaxem-vaccination
19. WHO Việt Nam. Sức khỏe trẻ em. [cited 2015 21 Nov]; Available from:
http://www.wpro.who.int/vietnam/topics/child_health/factsheet/vi/
20. Cục
Y tế dự phòng - Bộ Y tế. Hãy đưa trẻ đi tiêm vắc xin phòng bệnh Ho gà lúc trẻ 2
tháng tuổi trong chương trình tiêm chủng mở rộng 2015 [cited 2015 21 Nov]; Available from:
http://vncdc.gov.vn/vi/tiem-vac-xin-soi-rubella-tre-1-14-tuoi/388/hay-dua-tre-di-tiem-vac-xin-cua-chuong-trinh-tiem-chung-mo-rong-dung-lich-va-du-mui-tiem-de-phong-benh
21. Trung
tâm Truyền thông Giáo dục Sức khỏe Trung ương - Bộ Y tế. Giới thiệu chung về bệnh bạch hầu. [cited 2015 21 Nov]; Available from:
http://songkhoe.vn/gioi-thieu-chung-ve-benh-bach-hau-s20-531-65625.html
22. CDC. Diphtheria. [cited 2015 21 Nov]; Available from:
http://www.cdc.gov/diphtheria/clinicians.html
23. Trần Phương. Nguy cơ dịch bạch hầu do
tỉ lệ tiêm Quinvaxem giảm? 2015 [cited 2015 21 Nov]; Available from:
http://dantri.com.vn/suc-khoe/nguy-co-dich-bach-hau-do-ti-le-tiem-quinvaxem-giam-20151105225518568.htm
24. Nam Phương. Dịch bạch hầu từ Lào sát
biên giới nguy cơ lây sang Việt Nam.
2015 [cited 2015 21 Nov];
Available from:
http://suckhoe.vnexpress.net/tin-tuc/suc-khoe/dich-bach-hau-tu-lao-sat-bien-gioi-nguy-co-lay-sang-viet-nam-3306470.html
25. Lê Phương. 2 ca tử vong, gần 300 bệnh
nhân nhập viện vì ho gà. 2015 [cited 2015 21 Nov]; Available from:
http://eva.vn/tin-tuc/gan-300-truong-hop-mac-benh-ho-ga-nhap-vien-2-truong-hop-tu-vong-c73a234732.html
26. Bệnh uốn ván. In Cẩm nang phòng chống
bệnh truyền nhiễm. [cited 2015 21 Nov];
Available from: http://www.pasteurhcm.gov.vn/news/benh-uon-van-102.html
27. WHO Việt Nam. Viêm gan B. [cited 2015 21 Nov]; Available from:
http://www.wpro.who.int/vietnam/topics/hepatitis/factsheet/vi/
28. Thịnh An. Khoảng 20% dân số Việt Nam mắc
viêm gan B. 2015 [cited 2015 21 Nov]; Available from:
http://yteduphong.com.vn/tieng-viet/thong-tin-benh-dich/khoang-20-dan-so-viet-nam-mac-viem-gan-b-c3420i2942.htm
29. Bệnh viện Từ Dũ. Tổng kết công tác báo
cáo Phản ứng có hại của thuốc (ADR) năm 2014 từ các cơ sở khám chữa bệnh của 63 tỉnh thành trong cả nước.
. 2015
[cited 2015 21 Nov]; Available from:
http://tudu.com.vn/vn/tin-tuc-su-kien/thong-tin-thuoc/thong-tin-thuoc-thang-052015/
30. Trung tâm DI & ADR Quốc gia. TỔNG
KẾT CÔNG TÁC BÁO CÁO ADR 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2013.
2013 [cited 2015 21 Nov];
Available from: http://magazine.canhgiacduoc.org.vn/Magazine/Details/105