Mụn trứng cá
Dịch: DS. Nguyễn Quang Việt
Nguồn: Alison Blenkinsopp, Paul Paxton and John Blenkinsopp
(2014). Symptoms in the Pharmacy - A Guide to management of common illnesses
7th.
Tỷ lệ mắc mụn
trứng cá ở tuổi teen rất cao và ước tính hơn nửa số thanh thiếu niên lứa tuổi
này bị mụn trứng cá ở nhiều mức độ khác nhau. Hầu hết người bị mụn trứng cá ban
đầu đều tự điều trị. Mụn trứng cá nhẹ thường đáp ứng tốt khi sử dụng các phương
pháp điều trị bằng các thuốc OTC. Mụn trứng cá có ảnh hưởng sâu sắc với người
bệnh và dược sĩ phải ghi nhớ điều đó thậm chí cả các trường hợp mụn trứng cá
nhẹ do bị coi là kém thẩm mỹ với tuổi teen. Mụn trứng cá từ trung bình đến nặng
có thể là một vấn đề lớn và là một nguồn gây trầm cảm với nhiều thanh thiếu
niên. Thông cảm với yêu cầu cần được giúp đỡ, cùng với lời mời trở lại và thông
báo mức độ tiến triển, có thể cũng quan trọng như điều trị đã lựa chọn.
Bạn cần biết những gì
|
Độ tuổi
Mức độ nghiêm
trọng
Nhẹ, trung
bình, các vùng da bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thời gian dùng thuốc
Ý nghĩa các câu hỏi và câu trả lời
|
Độ tuổi
Mụn trứng cá
thường xảy ra trong những năm tuổi teen, khởi đầu phổ biến hầu hết ở tuổi dậy
thì, mặc dù có thể bắt đầu để xuất hiện trong một năm hoặc lâu hơn. Mụn trứng
cá có thể tồn tại do bất cứ điều gì kéo dài từ một vài tháng đến vài năm. Khởi đầu
ở tuổi dậy thì mụn trứng cá có thể tháng tiếp tục cho đến cuối tuổi teen hoặc thậm
chí tới những năm đầu tuổi 20. Quá trình trao đổi hormon xảy ra ở tuổi dậy thì
đặc biệt là tạo ra androgen, được cho là có liên quan tới nguyên nhân gây mụn
trứng cá. Tăng keratin và bã nhờn sinh ra trong suốt thời thanh niên cũng được quy
cho là các nhân tố góp phần quan trọng; Tăng lượng keratin dẫn đến tắc nghẽn
các nang và hình thành những mụn trứng cá nhỏ. Mụn trứng cá nhỏ có thể phát
triển thành thương tổn không viêm (comedon), có thể mở (mụn đầu đen) hoặc đóng
(mụn đầu trắng) hoặc dẫn tới tổn thương có viêm (mụn, mụn nhú hoặc mụn mủ). Tiết
bã nhờn quá mức tạo điều kiện cho vi khuẩn phát triển, Propionibacterium acnes tham gia vào phát triển tổn thương viêm.
Mụn trứng cá có thể vì vậy tự viêm hoặc không tự viêm.[1]
Lứa tuổi rất trẻ
Mụn trứng cá rất hiếm
thấy ở trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh và bất kỳ những ca nào như vậy cần giới thiệu đến
bác sĩ để thăm khám, do trong quá trình tiết androgen (sản xuất hormon) có thể gây
nên u mụn chứng cá.
Lứa tuổi lớn hơn
Đối với người
bệnh bị mụn trứng cá bắt đầu muộn hơn những năm tuổi teen, nguyên nhân khác cần
phải cân nhắc gồm cả điều trị bằng thuốc (thảo luận dưới đây) và các yếu tố
nghề nghiệp. Dầu và mỡ bôi trơn sử dụng tại nơi làm việc có thể gây nên mụn
trứng cá và sẽ có giá trị để hỏi xem người bệnh có tiếp xúc với các tác nhân
như vậy. Mụn trứng cá nặng lên ngay trước hoặc trong khi
kinh nguyệt ở một số phụ nữ; điều này cho là do thay đổi ở mức progesteron.
Mức độ nghiêm trọng
Có thể khuyến cáo
điều trị mụn trứng cá nhẹ bằng các thuốc OTC. Mụn trứng cá có thể mở (mụn đầu
đen) hoặc đóng (mụn đầu trắng); bã nhờn ở mụn trứng cá đóng không thể lan tới bề
mặt da. Các nút sừng (plug of keratin) ở gốc nang một mụn trứng cá, ban đầu màu
trắng (mụn đầu trắng), sau này trở thành sẫm màu do tích tụ melanin (mụn đầu
đen). Tuy nhiên bã nhờn vẫn được tạo ra, vì vậy gây ra sưng và mụm trứng cá cuối
cùng vỡ ra, chảy ra các chất ở dưới bề mặt da. Các bã nhờn thoát ra gây phản
ứng viêm; nếu đáp ứng không nghiêm trọng, sẩn đỏ nhỏ xuất hiện. Khám thấy nhiều
mụn trứng cá nghiêm trọng hơn, viêm đỏ mụn trứng cá mủ, cần phải giới thiệu đến
bác sĩ để điều trị thay thế như kháng sinh tại chỗ hoặc toàn thân.
Các vùng da bị ảnh hưởng
Các vùng da bị
ảnh hưởng mụn trứng cá có thể gồm mặt, cổ, giữa ngực, lưng và vai, đó là tất cả
các vùng da có nhiều tuyến bã nhờn. Trứng cá đỏ là tình trạng da đôi khi nhầm lẫn
với mụn trứng cá (mảng sừng 3). Quá trình này thường xảy ra ở người trẻ tuổi và
trung niên. Mụn trứng cá đỏ có đặc tính mẩn đỏ đặc
trưng, sẩn và mụn trứng cá mủ. Thường chỉ có vùng da mặt bị ảnh hưởng.
Thời gian điều trị
Thông tin thu
được cần xem xét cùng với yếu tố về thuốc (thuốc kê đơn hoặc thuốc OTC) thử
dùng các loại thuốc đã có và các loại thuốc khác. Điều trị mụn trứng cá trong
thời gian dài bằng một số chế phẩm thuốc OTC đã sử dụng chính xác mà không
thành công cần giới thiệu đến bác sĩ.
Các dược sĩ nên
thiết lập đặc tính của mọi điều trị đã thử và phương pháp sử dụng chữa bệnh. Sử
dụng thuốc không phù hợp, ví dụ bôi thuốc không thường xuyên có thể ảnh hưởng
đến thành công điều trị.
Thông tin về các
liệu pháp hiện tại cũng quan trọng, vì mụn trứng cá đôi khi có thể do các loại
thuốc gây ra: Lithium, phenytoin và progestogen, levonorgestrel và nor-ethisterone
(có trong thuốc tránh thai kết hợp). Nếu mụn trứng cá bị nghi do điều trị bằng
thuốc, người bệnh cần được tư vấn để nói điều này với bác sĩ của họ.
Khi nào khuyến bệnh nhân đi khám bác sỹ
|
Mụn trứng cá
nặng
Dùng thuốc
không hiệu quả
Nghi ngờ trứng
cá do thuốc
|
Thời gian điều trị
Người bệnh bị mụn
trứng cá nhẹ không đáp ứng điều trị trong vòng 8 tuần nên giới thiệu đến bác
sĩ.
Quản lý
Có hàng
chục loại sản phẩm bán trên thị trường để điều trị mụn trứng cá. Dược sĩ có thể lựa chọn hợp lý dựa trên kiến thức
về khả năng hiệu quả. Mục đích điều trị chung là loại bỏ nút nang để các chất bã
nhờn có thể lưu thông tự do và giảm số lượng vi khuẩn trên da. Vì thế tác dụng
điều trị cần giảm hình thành mụn trứng cá. Dạng thuốc hữu ích nhất là các loại thuốc
bôi (dạng lỏng: nhũ dịch, hỗn dịch, kem thuốc, gel thuốc có các tá dược thân
nước trong công thức bào chế), các loại kem thuốc và gel thuốc. Gel thuốc với cốt
tá dược alcol khô nhanh có thể gây kích ứng. Những dạng bào chế này có cốt thân
nước làm khô chậm hơn nhưng ít có khả năng gây kích ứng da. Kem dưỡng ẩm không
gây mụn trứng cá có thể tốt nếu da bị khô do điều trị.
Benzoyl peroxid
Benzoyl peroxid có cả hoạt tính kháng khuẩn và chống mụn chứng cá và là dòng thuốc OTC
đầu tiên điều trị mụn trứng cá có viêm hoặc không viêm. Hoạt tính kháng viêm có
tác dụng ở mọi nồng độ. Hoạt tính chống mụn chứng cá thấp và có hiệu quả lớn
nhất ở nồng độ cao hơn. Benzoyl peroxid
có tác dụng làm bong lớp sừng làm tăng tốc độ thay thế tế bào da, giúp da bong vảy.
Bôi thuốc đều đặn có thể có hiệu quả cải thiện các chứng cá nhẹ. Lúc đầu benzoyl peroxid thường có khả năng gây
đỏ và đau nhức da và cần cảnh báo người bệnh về điều này (xem các quan điểm
thực tiễn dưới đây). Điều trị nên bắt đầu với các sản phẩm 2,5% hoặc 5%, chuyển
dần lên nồng độ 10% nếu cần thiết. Gel thuốc có thể hữu ích cho những người có
làn da dầu và thuốc kem cho những người có da khô. Rửa sạch da bằng xà phòng
nhẹ hoặc sản phẩm tẩy rửa, rửa lại bằng nước sạch trước khi bôi benzoyl peroxid có thể giúp giảm lượng
bã nhờn trên da.
Benzoyl peroxid
ngăn ngừa tổn thương mới hình thành chứ không phải là thu hẹp vùng da có mụn
trứng cá. Bởi vậy cần bôi thuốc lên toàn bộ vùng da bị ảnh hưởng, không chỉ đối
với mụn trứng cá riêng biệt và cần bôi đều nhất lên vùng da sau khi rửa sạch.
Trong một vài ngày đầu sử dụng da có khả năng đỏ lên và cảm thấy hơi đau. Tiếp
đến có thể đau nhức, khô và bong vảy. Cần cảnh báo tác dụng kích thích có thể
xảy ra; Nếu không người bệnh có thể bỏ dở không tuân thủ điều trị.
Một cách giảm tấy đỏ và đau
nhức da là bắt đầu với các chế phẩm có nồng độ thấp nhất và bôi kem thuốc, các
loại thuốc bôi hoặc bôi một lượng tối thiểu gel thuốc và không bôi thường xuyên
trong tuần đầu điều trị. Bôi thuốc một lần mỗi ngày hoặc cách ngày có thể thử
trong một tuần và sau đó tần số sử dụng tăng lên hai lần mỗi ngày. Sau 2 hoặc 3
tuần có thể dùng các chế phẩm có nồng độ cao hơn. Nếu tác dụng kích ứng không
cải thiện sau 1 tuần hoặc đau rất nặng hơn, nên ngưng sử dụng các sản phẩm.
Gây nhạy cảm
Thỉnh thoảng, mẫn cảm với benzoyl peroxid có thể xảy ra. Da bị tấy
đỏ, viêm và đau và nên ngừng điều trị.
Gây tẩy trắng
Cần cảnh báo benzoyl peroxid có khả năng tẩy trắng
quần áo và giường ngủ. Nếu dùng vào ban đêm, khăn trải gường trắng và áo gối trắng
có tác dụng tốt nhất và có thể khuyên người bệnh mặc áo ngắn tay cũ hoặc áo sơ
mi để giảm thiểu thiệt hại cho quần áo còn tốt. Tránh mắt, miệng và niêm mạc
tiếp xúc với benzoyl peroxid.
Các chất có tác dụng làm bong lớp sừng
Các chất có tác dụng làm bong
lớp sừng khác bao gồm kali quinolin hydroxy sulfat và acid salicylic. Các chất
này là những phương pháp điều trị thứ hai.
Nicotinamid
Nicotinamid dùng ngoài có hoạt
tính chống viêm nhẹ, cần bôi hai lần mỗi ngày. Có bằng chứng hạn chế về hiệu
quả. Tác dụng phụ bao gồm tình trạng khô da và kích ứng. Có thể cần điều trị trong
vài tuần để thấy hiệu quả đầy đủ.
Các chất kháng khuẩn
Rửa da bằng xà phòng có sẵn chứa
chất khử trùng như chlorhexidin. Những sản phẩm này có thể có lợi với người bị mụn
trứng cá nhờ tẩy dầu mỡ trên da và giảm các hệ vi khuẩn trên da. Có bằng chứng hiệu
quả hạn chế.
Các quan điểm thực tiễn
Thông tin về mụn trứng cá cho các bé tuổi teen
Trang web này www.teenagehealthfreak.com
là một nguồn thông tin hữu ích thiết thực cho thanh thiếu niên liên quan tới
sức khỏe bao gồm cả mụn trứng cá. Cũng như giải thích những điều về mụn trứng
cá và những phương pháp và thuốc có thể sử dụng để điều trị trứng cá, người sử
dụng trang web có thể đọc thắc mắc của thanh thiếu niên về mụn trứng cá.
Chế độ ăn uống
Không có bằng chứng để liên
quan chế độ ăn uống với mụn trứng cá, mặc nhiều người tin sô cô la và các loại
thực phẩm nhiều chất béo gây ra mụn trứng cá hoặc làm cho chứng cá nặng hơn.
Ánh sáng mặt trời
Người ta thường tin tác dụng
có lợi của ánh sáng mặt trời với mụn trứng cá, do tác dụng lột da mặt, giúp loại
bỏ nang và làm khô da hay hiệu lực tẩy dầu mỡ của ánh sáng. Một tổng quan có hệ
thống, hoặc đánh giá hệ thống (systematic reviews) về nội dung “còn đang thiếu bằng
chứng thuyết phục trực tiếp về tác động tích cực của ánh sáng mặt trời có tác
dụng và gây ảnh hướng tới mụn trứng cá”.
Thuốc kháng sinh
P. acnes kháng
với thuốc kháng sinh đang tăng. Các dược sĩ lợi thế trong đảm bảo sử dụng chính
xác phương pháp điều trị mụn trứng cá. Điều trị kháng sinh đường uống thường gồm
tetracyclin (minocyclin thường sử dụng đề giảm bớt kháng thuốc, thuốc hấp thu
tốt hơn và cần một liều duy nhất một lần mỗi ngày). Cần nhắc nhở người bệnh
không ăn hoặc uống các sản phẩm sữa 1 giờ trước hoặc sau khi dùng kháng sinh. Cũng
áp dụng cùng quy tắc đối với thuốc kháng acid hoặc các chế phẩm có chứa sắt.
Bằng chứng gợi ý rằng thất bại trong điều trị kháng sinh trị mụn trứng cá trong
quá khứ có thể do những mức cận lâm sàng của thuốc kháng sinh bởi vì sự chelat hóa
các ion kim loại trong các sản phẩm sữa hoặc thuốc kháng acid. Erythromycin cũng
sử dụng trong trị mụn trứng cá. Vi khuẩn kháng erythromycin hiện giờ khá cao, vì
vậy có thể không có hiệu quả.
Sử dụng các kháng sinh tại
chỗ thay thế cho kháng sinh uống nhưng không có hiệu quả như uống. Các kháng
sinh dùng tại chỗ chỉ hữu ích trong mụn trứng cá bị viêm. Erythromycin sử dụng
tại chỗ kết hợp với benzoyl peroxid hoặc kẽm (oxid) có thể giảm vi khuẩn kháng
thuốc hơn chỉ điều trị đường uống.
Điều trị liên tục
Mụn trứng cá đáp ứng khá chậm
với điều trị và có thể cần thời gian tới 6 tháng để đạt lợi ích tối đa. Điều đó
thường được các nhà chuyên môn đồng ý.
[1] Alison
Blenkinsopp, Paul Paxton and John Blenkinsopp. Symptoms in the Pharmacy: A Guide to the Management of Common Illness,
Seventh Edition. John Wiley & Sons, Ltd. Published 2014